KẺ SĨ CHU VĂN AN
(1292-1370)
Gs Lê Hữu Mục
Chu An là người
làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, sinh ngày 15.8 năm Nhâm Thìn
(1292), mất ngày 26 tháng11 năm Canh Tuất (1370). Ông đậu Thái học sinh năm
1314 nhưng không ra làm quan, thích ở nhà dạy học. Học trò nghe tiếng đến học rất
đông, trong đó có những nhân vật nổi tiếng như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát. Cả hai đều
đã đỗ Thái học sinh năm 1323, và đã giữ những chức vụ lớn trong quan trường.
Chu An nhận lời mời của Trần Minh Tông ra làm tư nghiệp Quốc Tử Giám năm 1341 và làm thầy dạy kinh sách cho
Trần Dụ Tông. Qua bài thơ Hạ Tiều ẩn tiên sinh Quốc tử giám tư nghiệp, bài số
13 trongBăng-hồ ngọc-hác tập của Trần Nguyên Đán, ta được biết Chu An trong thời
gian nầy là thần tượng của giới trẻ, những người thanh niên hiếu học, ưa hoạt động,
hăng say trong việc thực hiện những quyết lệnh đạo đức của thánh hiền; trong
khi đó một thanh niên ngoài 20 tuổi, tuy là học trò của ông, và đang nắm giữ
chính quyền, nhưng lại đi ngược lại những lời giáo huấn của ông đã trình bày
trong Tứ thư thuyết ước, giáo trình triết học của ông tại giảng đường Quốc Tử
Giám. Người học trò nổi tiếng vô đạo ấy là Trần Dụ Tông, sinh năm 1336, cùng tuổi
với Hồ Quý Ly, đã công khai đắm mình trong cuộc truy hoan kéo dài trong cung
Trường Xuân, cung Vị Ương, thích xem những trò cổ tích như “Tây Vương mẫu dâng
bàn đào“, do Dương Khương và bà vợ trình diễn tại kinh đô năm 1362, thích chiêu
tập những người nhà giàu ở làng Đình Bảng, làng Nga Đình vào cung đánh bạc, mỗi
một tiếng bạn ăn thua đến 300 quan tiền, thích uống rượu thi với Bùi Khoan
(1364) ; có khi Trần Dụ Tông lén bỏ kinh đô vào ban đêm để ra ngoại ô hành lạc
: như năm 1366, vua “đi chiếc thuyền nhỏ” ngủ đêm đến chơi nhà riêng của Thiếu
úy Trần Ngô Lang ở Mễ Sở, nửa đêm đi về, khi đến bãi Chử Gia bị kẻ trộm lấy mất
cả ấn báu và gươm báu. Tự biết là điềm chẳng lành, nhà vua lại càng buông thả
ăn chơi dâm dật. Những hành động vô luân
nầy đã làm cho tư nghiệp Chu An phẫn nộ. Ông đã đệ trình Thất trảm sớ để yêu cầu
nhà vua chém đầu 7 người gian thần có quyền thế và được nhà vua sủng ái như bọn
hoạn quan Phạm Nghiêm Từ, phú hộ Nguyễn Chế, bọn thầy thuốc Trâu Canh, Vương Định,
Phạm Thế Thương, bọn phường chèo Dương Khương và bà vợ mệnh danh là Vương mẫu,
bọn Bùi Khoan, Trần Ngộ Lang; tất cả là một bọn vô học nhưng có tài bợ đỡ nên
đã chinh phục được lòng tin yêu của nhà vua, khuynh loát hoàn toàn ảnh hưởng của
các nhà trí thức đang lo âu trước những biến chuyển mau chóng của thời thế. Bài
sớ của Chu An dĩ nhiên không được nhà vua nghe theo, và Chu An đã mạnh bạo trao
trả mũ áo, trở về vui thú điền viên tại núi Chí Linh. Những tác phẩm của Chu An
như Tứ thư thuyết ước, Thất trảm sớ, Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập đều
đã bị nhà Minh tịch thu đem về Kim Lăng và cho đến nay, đã hoàn toàn bị thất
truyền. Sự kiện nầy chứng thực tầm quan trọng của những tác phẩm nói trên về
phương diện phát huy ý thức dân tộc, điều mà nhà Minh muốn huỷ diệt tận nguồn để
toả chiết tinh thần quật khởi của người Giao Chỉ. Hiện nay, ta chỉ có thể căn cứ
trên cuốn Chu Văn Trình công thi tập, gồm 10 bài thơ đã được Bùi Bích chép lại
trong Hoàng việt thi tuyển, đó là những bài: –Chí Linh sơn tạp hứng. -Thanh
Lương giang. -Nhật tịch bộ Tiên Du sơn tùng kính. -Giang đình tác. -Miệt trì
-Sơ hạ -Xuân đán
1- Tư tưởng của Chu An
Những buổi chiều trên quê hương
Trong số 7 bài thơ còn sót lại của
Chu An thì đã có 5 bài nói về buổi chiều, đó là những bài từ số 1 đến số 5. Tác
giả nói đến một buổi chiều vắng vẻ ở núi Chí Linh, những cảnh núi rừng trải rộng
trong cô tịch, con đường ngập cỏ không có một bóng người qua, tiếng chim thước ở
xa chìm đắm trong mây khói (Chí Linh sơn tạp hứng). Đây cũng là hình ảnh buổi
chiều trên sông Thanh Lương, tục gọi là sông Vạn; bóng chiều vắt ngang lưng
núi, thuyền đánh cá từng đôi một trở về theo dọc bờ sông, tác giả một mình thui
thủi nghe gió thổi vi vu và ngắm nước thủy triều đang dâng lên từng ngọn nhỏ
(Thanh Lương giang). Có khi tác giả lững thững đi bộ một mình trên núi Tiên Du,
nhìn núi Lạn Khả mịt mù trong sương khói, xa xa có tiếng sáo văng vẳng giữa bầu
trời bát ngát mênh mông, trong khi chim chiều bay vội trong sương mờ, con cá lạnh
lẽo nhảy vọt lên trên làn nước suối xanh
biếc; thế rồi tiếng sáo loãng dần cùng với thời gian lặng lẽ qua, làm
cho núi Phật Tích phía tây đã đìu hiu lại càng thêm vắng vẻ (Nhật tịch bộ Tiên
Du Sơn tùng kính). Buổi chiều còn quạnh quẽ hơn khi tác giả đứng một mình trong
chiếc quán nhỏ bên sông, vẩn vơ đứng đếm những chiếc thuyền từ ngoài khơi trở về;
gió thổi mạnh từ đầu ghềnh đưa tiếng sáo của ai lên cao vút, bóng chiều đã trở
về trên vẻ nhợt nhạt của màu nắng hồng; trời tối dần, nhìn ra xa chỉ thấy dằng
dặc một màu xanh mênh mông, như công danh hoang đường đã rơi rụng, như cuộc đời
làm quan xưa kia chỉ là một cuộc phiếm du, không như bây giờ, cuộc đời tự do biết
bao, tự đi tự lại không có gì có thể ngăn giữ được, chẳng khác gì con chim âu
đang vùng vẫy trong muôn trùng sóng biếc (Giang Đình Tác). Buổi chiều với ánh
trăng non cũng ấp ủ một nỗi buồn dằng dặc như vậy. Trăng nước bên cầu đùa giỡn
với bóng chiều hôm, hoa sen với lá sen, nương tựa vào nhau lặng lẽ. Cá chơi ở
ao xưa, rồng bây giờ ở đâu? Mây đùn đầu núi trơ trọi, hạc chưa bay về. Cây quế
già theo gió đưa hương thơm trên đường đá, trong khi những lá rêu non đẫm nước
che lấp cả cánh cửa thông. Lòng của tác giả chưa lạnh lẽo như tro nguội, bởi vậy,
mỗi lần nghe nói về thượng hoàng Trần Minh Tông là nước mắt của tác giả lại lã
chã tuôn rơi giữa sự tịch mịch của buổi chiều (Miệt Trì). Bài thơ cuối cùng nầy
nói về buổi chiều đã bắt đầu ngả sang một chủ đề khác mạnh mẽ hơn, sáng sủa
hơn, có ánh sáng chiếu về làm nẩy nở mầm hy vọng mới.
Những mùa ánh sáng
Ngay trong những bài thơ trên tả cảnh
buổi chiều, ánh sáng không bao giờ vắng bóng; ta chỉ thấy dâng lên qua khung cảnh
của bài thơ một không khí tịch mịch êm đềm, một thế giới quạnh quẽ xa xôi trong
đó tiếng sáo vút lên như đưa tâm hồn vượt khỏi những kích thước tầm thường của
trần gian để bay đến những chân trời rộng lớn. Từ những thế giới nầy ánh sáng rực
rỡ chiếu ra theo những luồng gió mát bắt đầu trổi cùng tiếng nhạc ve vào hội.
Ánh sáng hắt ra từ màu hoa sen, từ màu trắng của măng tre bắt đàu chớm nở như một
tâm hồn trinh bạch (Sơ Hạ). Ánh sáng còn toả ra từ màu xanh biếc của cỏ làm cho
trời đất chếnh choáng như say rượu, màu đỏ hồng rực rỡ thấm vào cánh hoa làm
cho giọt sương rung rinh chiếu ánh sáng như từ một viên ngọc quý (Xuân Đán).
Những ý chí phục vụ sắt son
Từ dịch khoảng năm 1366 để phản đối
sự lộng hành của bảy tên quyền thần, Chu An đã thực hiện một cách ngoạn mục
tinh thần phục vụ của Hưng Minh Vương Trần Quốc Tảng, của Trương Hán Siêu, của
các thi sĩ trong thi xã Bích Động. Bài Thất trảm sớ đã không còn nữa để cho ta phân tích đầy đủ tư tưởng của
Chu An, nhưng căn cứ trên 7 bài thơ còn lại, ta cũng có thể một phần nào hiểu
được ý chí phục vụ của Chu An. Trước hết, việc từ dịch của ông không phải là một
thái độ bất hợp tác: ông chỉ muốn phân biệt nhiệm vụ và quyền lợi, bởi vì sự hiện
diện của ông ở triều đình tuy bảo vệ quyền lợi của cá nhân ông nhưng lại gây
nguy hại cho đại cuộc, trong khi đó, việc từ dịch của ông không mảy may xúc phạm
trọng trách vệ đạo của một nho sĩ xác tín như ông, nếu tại chức là một nhiệm vụ,
thì từ dịch cũng là một nhiệm vụ, khi nhà nho biết khước từ quyền lợi cá nhân.
Bởi vậy, trong bài Xuân Đán, Chu An thành thật bộc lộ niềm tha thiết của ông đối
với sự trường tồn của triều đại nhà Trần; cũng như những đám mây đang chờn vờn
trên đỉnh núi Chí Linh, ông vẫn ngày đêm quyến luyến với tất cả những gì có
liên hệ tới triều chính mặc dù tuổi tác đã cao:
Mây côi, thân lão, non còn vẩn.
Giếng cũ, lòng già, sóng hết lan.
Trong bài Miệt Trì nói về chiếc ao
ba ba (dịch chữ Miệt trì) ở núi Phụng Hoàng, trước kia ở ranh giới huyện Phụng
Sơn, xứ Kinh Bắc, tác giả đã có dịp so sánh xã hội đời Trần với một chiếc ao ba
ba, chỉ có cá chơi ở ao xưa, còn rồng thì đi vắng, chỉ có mây đùn trên đầu núi
trơ trọi, còn hạc thì chưa thấy bay về; cây quế già theo gió đưa hương thơm
trên đường đá, trong khi những tảng rêu non đẫm nước che lấp cả cánh cửa thông;
tác giả kết luận rằng trước cái cảnh trái ngược ấy, tấc lòng riêng của ông chưa
lạnh lùng như tro nguội; cho nên khi liên tưởng đến những chuyện tốt đẹp mà chế
độ nhà Trần đã thực hiện vào thời thượng hoàng Trần Minh Tông, những chuyện hoàn toàn tương phản với sự
thật phủ phàng đời Trần Dụ Tông, Chu An chỉ biết gạt thầm giọt lệ một cách đau
đớn. Bài thơ cho ta thấy rõ ràng lòng gắn bó của Chu An với triều đại nhà Trần;
những lời phê phán của ông hướng về những hành động điên cuồng của Trần Dụ Tông
và của tập đoàn bợ đỡ chung quanh xuất phát từ lòng phục vụ nhiệt thành, từ một
con người ý thức được nhiệm vụ của mình là phải hoạt động bất cứ vào địa vị nào
để giúp vua cứu nước:
Tấc lòng chưa nguội
như tro đất,
Nghe chuyện tiên
hoàng giọt lệ sa.
Giọt lệ sa (Hán văn: lệ ám huy) đó
có phải là hành động tiêu cực không? Dĩ nhiên xét về phương diện chính trị, thì
đó hiển nhiên là một hành đông tiêu cực và chẳng những chỉ là tiêu cực mà thôi,
mà còn tỏ ra yếu đuối nữa; nhưng ta cũng phải biết rằng Chu An là một nhà nho
mà sự phục tùng đối với nhà vua bao giờ cũng là tuyệt đối. Ở vào một trường hợp
như Chu An, khi đã từ dịch mà không bị bọn tham nhũng trả thù thì uy tín có thể
đã gọi là to lớn; còn chuyện làm cách mạng để lật đổ chính quyền thì chưa chắc
lúc nào cũng là một biện pháp hay, cho nên công việc mà Chu An phải làm là phải
cải hoá Trần Dụ Tông trước đã; sau đấy, dùng hành động và văn chương để tố cáo
trước dư luận những ý đồ xấu xa của bọn tham ô. Bài thơ Miệt Trì là một bản cáo
trạng hùng hồn lên án những hành động của loài cá, của rong rêu, nghĩa là của bọn thầy thuốc Trâu Canh, bọn
hoạn quan Phạm Nghiêu- Từ, bọn trụy lạc Bùi Khoan và Trần Ngô Lang, bọn nhà
giàu Nguyễn Chế. Nếu bài Thất trảm sớđã không được nhà vua để mắt tới thì một
bài thơ như bài Miệt trì bắt buộc nhà vua phải đọc, bắt buộc nhà vua phải suy
nghĩ về những hành động xấu xa của mình, như những Cung định vương Phủ, Cung định
vương Kính, công chúa Thiên Ninh, Băng hồ Trần Nguyên Đán là những người lật đổ
Dương Nhật Lễ năm 1370. Nói tóm tắt dù đã từ dịch và sống một cách âm thầm
trong đồi núi Chí Linh, Chu An đã không bao giờ ngừng hoạt động để phục hồi uy tín của triều đình; ông đã sử dụng những
biện pháp văn hóa như giáo dục và vân chương để huấn luyện và cảnh giác ý thức
quật khởi của quần chúng, chứng thực ý chí phục vụ của nhà nho Chu An lúc nào
cũng bền vững một niềm sắt son.
Niềm tin vào thanh niên
Để thực hiện chương trình giúp nước
cứu dân ấy, Chu An mong đợi vào lòng hăng hái tham gia của thanh niên. Ông đã
mô tả kì vọng của ông trong bài Sơ hạ:
Vắng vẻ nhà rừng tỉnh
giấc trưa,
Sân hòe gió mát một
luồng đưa.
Lũy xưa én kiếm
bay sau trước,
Tiếng mới ve kêu đến
nhặt thưa.
Điểm nước sen khe
không vẻ tục,
Vượt rào măng trúc
chẳng tài vừa.
Ôm đàn, ngồi lặng,
sinh lười biếng,
Sách nát trên bàn,
gió giở tờ.
Bài thơ thoát ra một sinh khí khỏe
mạnh, sinh khí của hè ấm áp thay thế cho mùa xuân lạnh lẽo, của tuổi thanh niên
đang vươn dậy như mâng trúc vượt rào của tuổi trẻ tươi đẹp như đóa sen rừng rực
rỡ trong lòng suối xanh. Thanh niên đây là những người lớp trẻ như Nguyễn Ứng
Long, Trần đình Thâm, Phạm Nhân Khanh, hoặc những người trưởng thành hơn như những
Trần Phủ, sinh năm 1321, sau 1370 là vua Trần Nghệ Tông, Trần Nguyên Đán sinh
năm 1337, sau 1372, là vua Trần Diệu Tông. Họ đã chứng kiến được thái độ can đảm
của Chu An khi từ dịch họ đã được đọc những bài thơ hùng hồn mạnh mẽ kích thích
tinh thần tranh đấu của họ; họ đã nhận định được tình thế để thi hành những việc
phải thi hành. Họ đã tham gia vào phong trào văn học phê phán triều đại Trần Dụ
Tông mà những nhà văn tiêu biểu là tam Phạm (Phạm Ngô, Phạm Tông Mai, Phạm Sư Mạnh),
Nguyễn Tử Thanh, Lê Quát, Đỗ Tử Vi, Chu Đường Anh. Tháng 11 nâm Canh Tuất
(1370) họ đã lật đổ Dương Nhật Lễ, và Chu An vội vã chống gậy đến mừng đại diện
của họ là Cung Định Vương Phủ vừa lên ngôi niên hiệu là Trần Duệ Tông. Họ đã
làm đúng như lời mơ ước của Chu An.
2- Giá trị của Chu An
• Một
nhà giáo có giáo trình
Giá trị nổi bật của Chu An không phải
là ông đã có bằng thái học sinh tức tiến sĩ, và được chính quyền mời làm Quốc tử
giám tư nghiệp, mà chính là vì ông đã soạn thảo một giáo trình có giá trị đối với
các sinh đồ đương thời và nhất là đối với các giai cấp nhân dân, đó là cuốn Tứ
thư huyết ước. Tác phẩm đã thất truyền vì manh tâm phá hoại văn hoá Việt Nam của
quân xâm lược nhà Minh, nhưng căn cứ trên nhan đề của tác phẩm cũng đủ thấy rằng
tác giả không muốn cùng lí ở chỗ phồn văn mà chỉ muốn chú trọng về thực hành, lấy
điều minh đạo hoá dân làm gốc. Tinh thần trọng thực hành ấy chắc chắn đã thúc đẩy
tác giả quan niệm và giải quyết những vấn đề mà Nho giáo đã đặt ra trong thực tế
chính trị và văn hoá Việt Nam, hun đúc tinh thần độc lập, tự cường mà nho sĩ cần
phải có trong sinh hoạt hằng ngày. Một môn sinh của Chu An, Trần Phủ, sau nầy
là vua Trần Nghệ Tông đã nói: “Trần triều ta lập quốc đã tự có pháp độ riêng,
chứ không theo của nhà Tống. Bởi vì Nam – Bắc đều tự chủ lấy mình, không nên phỏng
chép của nhau” . Nhận định của Trần Nghệ Tông cho ta kết luận tinh thần Nho
giáo chi phối sự soạn thuật Tứ thư thuyết ước là tinh thần Chu Công Đán, thần
tượng của Hồ Quý Ly, chứ không phải là Khổng Tử, Mạnh Tử, hay các danh nho đời
Tống. Giáo trình triết học của Chu An đã gây một vùng ảnh hưởng quan trọng về
chính trị và văn học.
• Một
nhà chính trị nhiệt thành.
Tham gia chính quyền vào lúc mà một
người khác bắt đầu sửa soạn để rút lui, Chu An hiểu rõ thế nào là chính trị; và
nhà làm chính trị không phải là một người chạy theo chính quyền để làm một tay
sai ngoan ngoãn, mà ngược lại, phải là người soi sáng cho chính quyền đi theo
những nguyên tắc chính trị đã được tiên nho chủ trương; khi chính quyền không
thi hành những vấn đề đã qui định, phải có can đảm đứng lên để phản kháng. Về
điểm nầy, Chu An là một điểm son trong lịch sử chính trị Việt Nam. Ông đã tham
gia vào sinh hoạt chính trị để thiết lập trật tự và ổn định tình thế; ông đã
kêu gọi nhà cầm quyền triệt hạ bọn tham ô; ông đã phản kháng chính quyền bằng
đơn xin từ dịch; nhưng ngay trong đời sống ẩn dật của một nhà chính trị vì tình
thế đã trở thành đối lập, Chu An vẫn theo dõi những biến chuyển của thời cuộc,
vẫn chú trọng đến những hoạt động của triều đình và sẵn sàng tái hợp tác nếu Trần
Dụ Tông trở lại chấp nhận những đề nghị của ông. Tư tưởng và hành động của Chu
An về phương diện chính trị đã soi sáng những sáng tác văn học của ông và thế hệ
1343 – 1370.
• Một
nhà văn nhập cuộc.
Nhập cuộc là tính chất căn bản của
văn chương nói chung, nhưng trong những tác phẩm của Chu An, nó đã mang một thuộc
tính đấu tranh quyết liệt. Đối tượng của Chu An là những người đồng thời: ông
viết để diễn đạt những hi vọng và những phẫn nộ của chính ông và của họ, không
phải với tính cách là một thực thể siêu hình như trong quan điểm văn học của Tế
Xuyên, mà với tính cách là một con người có tự do đương đầu với mọi hình thức độc
tài sa đoạ, bất công, tham nhũng. Nhờ ở những phát giác của ông, con người có
thể tự nhìn thấy được mình, nhận ra vị trí của mình bên cạnh người khác, và nhờ
đấy, có thể tự vượt. Tác phẩm văn chương của Chu An là một tổng hợp giữa phủ định
và dự định, phủ định hiện tại với những dữ kiện không mấy tốt đẹp và dự định
phác họa một trật tự trong tương lai. Có thể nói, với Chu An, văn học đã tự ý
thức được văn học; sự chủ quan của Chu An đã diễn dịch được một cách sâu xa những
nguyện vọng và nhu cầu tập thể; lời kêu gọi của ông đã kích thích tinh thần yêu
tự do của thanh niên và đã làm cho họ bật dậy để thực hiện và duy trì sự thống
trị của tự do. Chu An là một nhà văn nhập cuộc đích thực.
3- Vị trí của Chu An trong văn học
Những nhận xét trên khẳng định vị
trí ưu đãi của Chu An trên diễn đàn văn học; ông là một tư nghiệp có tinh thần văn
hoá cao, một nhà trí thức biết nhận định về thời đại mình và nhất là một nhà văn có tư tưởng sâu xa cô
đọng. Tư tưởng của ông không nằm rời rạc trong tác phẩm; hình thức của 7 bài
thơ còn lại chính là ý tưởng của Chu An, nó phát triển theo những tiềm năng u
trầm của nó và tự choàng vào mình một hình thể; Chu An đã sử dụng tất cả những
tiềm năng ấy về phương diện nhạc tính cũng như về nội dung khái niệm, nối kết từ
ngữ bằng ẩn dụ và hình ảnh, trói buộc chúng bằng nhịp điệu và sáng chế ra những
biểu tượng chưa từng có trong những tác phẩm văn chương có trước ông. Những người
đồng thời với Chu An đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của ông về tư tưởng cũng như về
bút pháp, ta có thể nói tới họ để hiểu rõ thế hệ Chu An hơn.
Gs Lê
Hữu Mục
Montréal,
Canada
Nguồn: http://lamhong.org/ke-si-chu-an-1292-1370/
.Một đời kẻ sĩ hiến thân
Trả lờiXóaCho đời khốn khó tình chân của mình
.Đến bây giờ vẫn in hình
Làm quan liêm chính dân mình ghi sâu
.
Bài anh viết dài quá anh ơi-Chúc anh chủ nhật tươi hồng vuiver anh nhé
Bài này của GS.Lê hữu Mục,mình chỉ chép lại để đọc và giới thiệu cho bạn hữu cùng đọc.Tuy hơi dai,nhưng đọc cũng rất thích,
XóaCảm ơn NVT đã ghé thăm!
Chúc bạn an bình !