CHU VĂN AN
Bài của Đỗ Chiêu Đức
Chu Văn An 朱文安 (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn,tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật là Chu An, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An. Ông người làng Văn Thôn , xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm (nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội).
Sau khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học.Học trò theo học rất đông, trong số đó có Phạm Sư Mạnh, Lê Quát.
Năm Khai Thái đời Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám tư nghiệp,dạy cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369) nhà vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần thì lộng quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện Chí Linh . Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt tên thuỵ là Văn Trinh.
Tác phẩm: Chu Văn An từng có những tác phẩm như: Thất trảm sớ, Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
Sau đây là những bài thơ tiêu biểu của ông :
Sau khi thi đậu thái học sinh, Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học.Học trò theo học rất đông, trong số đó có Phạm Sư Mạnh, Lê Quát.
Năm Khai Thái đời Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám tư nghiệp,dạy cho thái tử học.Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369) nhà vua mải mê chơi bời, bỏ bê việc nước, bọn quyền thần thì lộng quyền,hà khắc,tham nhũng; Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nhưng vua không nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng , làng Kiệt Ðặc , huyện Chí Linh . Ông mất năm Thiệu Khánh thứ nhất. Ðời Trần Nghệ Tông (1370), được vua làm lễ tế và đặt tên thuỵ là Văn Trinh.
Tác phẩm: Chu Văn An từng có những tác phẩm như: Thất trảm sớ, Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng cho đến nay mới chỉ tìm được 12 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
Sau đây là những bài thơ tiêu biểu của ông :
1. Nguyên bản chữ Hán của bài thơ:
春旦 XUÂN ĐÁN
寂寞山家鎮日閒, Tịch mịch sơn gia trấn nhựt nhàn,
竹扉斜擁護輕寒。 Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
碧迷草色天如醉, Bích mê thảo sắc thiên như túy
紅濕花梢露未乾。 Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
身與孤雲長戀岫, Thân dữ cô vân trường luyến tụ
心同古井不生瀾。 Tâm đồng cổ tỉnh bất sanh lan.
柏薰半冷茶煙歇, Bá huân bán lãnh trà yên yết,
溪鳥一聲春夢殘。 Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
朱文安 Chu Văn An
* Dịch Nghĩa :
Suốt ngày nhàn hạ rảnh rổi với ngôi nhà quạnh quẽ vắng lặng ở trên núi nầy. Chiếc cửa tre xiêu vẹo ôm ấp lấy căn nhà che chắn bớt cái cơn lạnh nhè nhẹ đang lan tỏa. Nhìn xuống xa xa bãi cỏ non xanh biếc, bầu trời cũng xanh biếc như ngất ngây say. Những đóa hoa hồng lên trên cành rực rỡ với các giọt sương còn lóng lánh chưa khô. Tấm thân ta như đám mây đơn lẻ kia cứ mãi quyến luyến không nở rời đỉnh núi, và lòng ta thì đã khô cằn như chiếc giếng xưa kia đã không còn dậy sóng nữa. Những nhánh tùng bách cháy tàn nửa vời lạnh lẽo, trà thuốc cũng đã cạn rồi. Những con chim bên khe vổ cánh bay tiếng kêu oang oác làm chợt tỉnh giấc, mộng xuân cũng tàn lụi theo luôn.
* DIỄN NÔM :
Ngày Xuân
Nhà tịch mịch núi cao nghe vắng vẻ,
Cửa phên tre nghiêng ngã lạnh lan tràn.
Trời như say thảm cỏ biếc mênh mang,
Hoa đỏ thắm đầu cành sương chưa ráo.
Thân nầy tựa như mây còn luyến núi,
Lòng thì như giếng cạn sóng đà an.
Lửa tắt trà khô thuốc hết đêm tàn,
Chim oang oác giật mình tan giấc mộng !
Lục bát :
Nhà cao vắng vẻ an nhàn,
Cửa tre xiêu vẹo lạnh tràn gió đông.
Trời xanh đồng cỏ mênh mông,
Ngậm sương mấy đóa hoa hồng nở xinh.
Thân như mây nổi linh đinh,
Lòng như giếng cạn không sinh sóng hời.
Đêm tàn lửa tắt trà vơi,
Chim kêu tỉnh giấc một trời xuân mơ !
Đỗ Chiêu Đức.
2. Bài thơ Nguyệt Tịch Bộ Tiên Du Sơn Tùng Kính :
月夕步仙 Nguyệt Tịch Bộ
遊山松徑 Tiên Du Sơn Tùng Kính
朱文安 Chu Văn An
緩緩步松堤, Hoãn hoãn bộ tùng đê
孤村淡靄迷。 Cô thôn đạm ái mê
潮回江笛迥, Triều hồi giang địch quýnh
天闊樹雲低。 Thiên khoát thụ vân đê
宿鳥翻清露, Túc điểu phiên thanh lộ
寒魚躍碧溪。 Hàn ngư dược bích khê.
吹笙何處去, Xuy sinh hà xứ khứ,
寂寞故山西。 Tịch mịch cố sơn tê (tây)
月夕步仙 Nguyệt Tịch Bộ
遊山松徑 Tiên Du Sơn Tùng Kính
朱文安 Chu Văn An
緩緩步松堤, Hoãn hoãn bộ tùng đê
孤村淡靄迷。 Cô thôn đạm ái mê
潮回江笛迥, Triều hồi giang địch quýnh
天闊樹雲低。 Thiên khoát thụ vân đê
宿鳥翻清露, Túc điểu phiên thanh lộ
寒魚躍碧溪。 Hàn ngư dược bích khê.
吹笙何處去, Xuy sinh hà xứ khứ,
寂寞故山西。 Tịch mịch cố sơn tê (tây)
*Dịch Nghĩa:
Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi Tiên Du
Lững thững dạo bước trên bờ đê dưới bóng tùng. Mây khói mơ hồ như che khuất làng quê hẻo lánh. Nước thủy triều lên trong tiếng sáo xa xa trên sông vắng. Trời cao rộng, nên mây như là là thấp xuống gần ngọn ngọn cây hơn.Chim về tổ bay trong làn sương mát nhẹ. Cá gặp lạnh nhảy dưới khe nước trong biêng biếc. Đâu rồi tiếng tiêu sáo văng vẳng trên sông. Để núi tây cũ thêm quạnh hiu, vắng lặng !
*Diễn Nôm:
Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi Tiên Du
Lững thững dạo bước trên bờ đê dưới bóng tùng. Mây khói mơ hồ như che khuất làng quê hẻo lánh. Nước thủy triều lên trong tiếng sáo xa xa trên sông vắng. Trời cao rộng, nên mây như là là thấp xuống gần ngọn ngọn cây hơn.Chim về tổ bay trong làn sương mát nhẹ. Cá gặp lạnh nhảy dưới khe nước trong biêng biếc. Đâu rồi tiếng tiêu sáo văng vẳng trên sông. Để núi tây cũ thêm quạnh hiu, vắng lặng !
*Diễn Nôm:
Ðêm trăng dạo bước dưới rặng thông ở núi Tiên Du
Chầm chậm dưới bóng tùng,
Xóm nhỏ sương mông lung.
Nước về vang tiếng sáo,
Trời cao cây mây chùn.
Chim chiều bay về tổ,
Cá lạnh vượt khe rừng.
Tiêu thiều đà vắng ngắt,
Núi tây lại lạnh lùng.
Lục Bát :
Thẩn thơ đi dưới bóng tùng,
Làng quê sương khói mông lung mơ màng.
Nước về tiếng sáo vẳng sang,
Trên cao mây thấp cây ngang lưng trời.
Chim bay về tổ sương rơi,
Lạnh căm khe nước quẩy đuôi cá về.
Tiêu thiều lặng ngắt tư bề,
Quạnh hiu làng cũ tái tê núi đồi !
Xóm nhỏ sương mông lung.
Nước về vang tiếng sáo,
Trời cao cây mây chùn.
Chim chiều bay về tổ,
Cá lạnh vượt khe rừng.
Tiêu thiều đà vắng ngắt,
Núi tây lại lạnh lùng.
Lục Bát :
Thẩn thơ đi dưới bóng tùng,
Làng quê sương khói mông lung mơ màng.
Nước về tiếng sáo vẳng sang,
Trên cao mây thấp cây ngang lưng trời.
Chim bay về tổ sương rơi,
Lạnh căm khe nước quẩy đuôi cá về.
Tiêu thiều lặng ngắt tư bề,
Quạnh hiu làng cũ tái tê núi đồi !
3. Bài thơ Linh Sơn Tạp Hứng :
靈山雜興 Linh Sơn Tạp Hứng
萬疊青山簇畫屏, Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
斜陽淡抹半溪明。 Tà dương đạm mạt bán khê minh
翠蘿徑裏無人到, Thúy la kính lý vô nhân đáo,
山鵲啼煙時一聲。 Sơn thước đề yên thời nhất thinh.
朱文安 Chu Văn An
萬疊青山簇畫屏, Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
斜陽淡抹半溪明。 Tà dương đạm mạt bán khê minh
翠蘿徑裏無人到, Thúy la kính lý vô nhân đáo,
山鵲啼煙時一聲。 Sơn thước đề yên thời nhất thinh.
朱文安 Chu Văn An
* Chú Thích :
- Linh Sơn 靈山 : Tức núi Chí Linh, là một ngọn núi thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, cao và hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu (nay thuộc xã Giao An, giữa Lang Chánh và Thường Xuân).
- Điệp 疊 : là Chất chồng lên nhau, nên Vạn Điệp là Chất chồng cả muôn cả vạn lên với nhau.
- Thốc 簇 : là Lượng từ, chỉ(một) Cuộn, Bó, Bức, Tấm...
- Đạm Mạt 淡抹 : là Thoa một lớp mỏng, trong bài thơ chỉ Ánh nắng chiều chiếu nhàn nhạt.
- Thúy La 翠蘿 : là những dây leo màu xanh biếc.
- Sơn Thước 山鵲 : là những con qụa núi.
- Thời 時 : là Thỉnh thoảng, là Chốc chốc.
* Nghĩa bài thơ :
Chợt Hứng ở núi Chí Linh
Cả muôn cả vạn ngọn núi xanh chồng chất lên nhau, trông như một bức bình phong tranh vẽ. Ánh nắng chiều nhàn nhạt chiếu làm cho dòng khe tranh tối tranh sáng. Trên con đường cỏ phủ đầy dây leo xanh biếc vì không người đi tới, thỉnh thoảng một vài tiếng qụa núi kêu vang trong sương khói mơ hồ.
Qủa là một bức tranh núi non hùng vĩ thâm u, nơi đã từng là căn cứ địa của nghĩa quân Bình Định Vương Lê Lợi trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh.
- Linh Sơn 靈山 : Tức núi Chí Linh, là một ngọn núi thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa, cao và hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu (nay thuộc xã Giao An, giữa Lang Chánh và Thường Xuân).
- Điệp 疊 : là Chất chồng lên nhau, nên Vạn Điệp là Chất chồng cả muôn cả vạn lên với nhau.
- Thốc 簇 : là Lượng từ, chỉ(một) Cuộn, Bó, Bức, Tấm...
- Đạm Mạt 淡抹 : là Thoa một lớp mỏng, trong bài thơ chỉ Ánh nắng chiều chiếu nhàn nhạt.
- Thúy La 翠蘿 : là những dây leo màu xanh biếc.
- Sơn Thước 山鵲 : là những con qụa núi.
- Thời 時 : là Thỉnh thoảng, là Chốc chốc.
* Nghĩa bài thơ :
Chợt Hứng ở núi Chí Linh
Cả muôn cả vạn ngọn núi xanh chồng chất lên nhau, trông như một bức bình phong tranh vẽ. Ánh nắng chiều nhàn nhạt chiếu làm cho dòng khe tranh tối tranh sáng. Trên con đường cỏ phủ đầy dây leo xanh biếc vì không người đi tới, thỉnh thoảng một vài tiếng qụa núi kêu vang trong sương khói mơ hồ.
Qủa là một bức tranh núi non hùng vĩ thâm u, nơi đã từng là căn cứ địa của nghĩa quân Bình Định Vương Lê Lợi trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh.
* Diễn Nôm :
Núi non trùng điệp tựa như tranh,
Nắng chiếu chập chờn khe nước xanh.
Cỏ biếc dây leo đường núi vắng,
Đâu đây tiếng qụa khói mờ quanh.
Lục bát :
Điệp trùng núi biếc tựa tranh,
Nắng chiều mờ tỏ khe xanh chập chờn.
Dây leo đường núi trống trơn,
Một vài tiếng qụa khói sương mơ hồ.
Đỗ Chiêu Đức
4. Bài thơ Thanh Lương Giang :
清涼江 Thanh Lương Giang
山腰一抹夕陽橫, Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
兩兩漁舟畔岸行。 Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
獨立清涼江上望, Độc lập Thanh Lương Giang thượng vọng,
寒風颯颯嫩潮生。 Hàn phong táp táp nộn triều sinh.
朱文安 Chu Văn An
山腰一抹夕陽橫, Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
兩兩漁舟畔岸行。 Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
獨立清涼江上望, Độc lập Thanh Lương Giang thượng vọng,
寒風颯颯嫩潮生。 Hàn phong táp táp nộn triều sinh.
朱文安 Chu Văn An
* Chú Thích :
- Sơn Yêu 山腰 : là Cái eo của núi, là Sườn núi.
- Nhất Mạt Tịch Dương 一抹夕陽 : là Một vệt nắng chiều.
- Bạn Ngạn 畔岸 : là vựa sát theo bờ sông.
- Táp táp 颯颯 : là Phần phật, là Vi vút, là Vù vù...
- Nộn Triều Sinh 嫩潮生 : Nước Thủy triều bắt đầu lên.
- Sơn Yêu 山腰 : là Cái eo của núi, là Sườn núi.
- Nhất Mạt Tịch Dương 一抹夕陽 : là Một vệt nắng chiều.
- Bạn Ngạn 畔岸 : là vựa sát theo bờ sông.
- Táp táp 颯颯 : là Phần phật, là Vi vút, là Vù vù...
- Nộn Triều Sinh 嫩潮生 : Nước Thủy triều bắt đầu lên.
* Nghĩa Bài Thơ :
Dòng Sông Thanh Lương
Dòng Sông Thanh Lương
Một vệt nắng chiều vắt ngang qua sườn núi. Trên sông từng đôi từng hàng thuyền câu đang dọc theo bờ sông mà về bến. Ta đứng một mình trên dòng sông Thanh Lương mà nhìn ngắm. Gió lạnh thổi vi vút từng cơn trong khi con nước thủy triều đang bắt đầu dâng cao.
* Diễn Nôm :
Một vệt nắng chiều núi vắt ngang,
Thuyền câu về bến xếp song hàng.
Một mình đứng ngắm Thanh Lương chảy,
Vi vút gió về nước lại sang.
Lục Bát :
Nắng chiều sườn núi vắt ngang,
Song đôi về bến hai hàng thuyền câu.
Thanh Lương đứng ngắm hồi lâu,
Vụt vù gió lạnh lên mau thủy triều !
Một vệt nắng chiều núi vắt ngang,
Thuyền câu về bến xếp song hàng.
Một mình đứng ngắm Thanh Lương chảy,
Vi vút gió về nước lại sang.
Lục Bát :
Nắng chiều sườn núi vắt ngang,
Song đôi về bến hai hàng thuyền câu.
Thanh Lương đứng ngắm hồi lâu,
Vụt vù gió lạnh lên mau thủy triều !
Đỗ Chiêu Đức
5. Bài thơ Thôn Nam Sơn Tiểu Khế :
5. Bài thơ Thôn Nam Sơn Tiểu Khế :
村南山小憩 Thôn Nam Sơn Tiểu Khế
閑身南北片雲輕, Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
半枕清風世外情。 Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
佛界清幽塵界遠, Phật giới thanh u trần giới viễn,
庭前噴血一鶯鳴。 Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.
朱文安 Chu Văn An
* Chú Thích :
- Khế 憩: là nghỉ ngơi, Nghỉ mệt. Tiểu Khế 小憩 : là nghỉ xả hơi một chút.
- Nhàn Thân : Tấm thân nhàn hạ.
- Bán Chẩm : là Nửa gối.
- Phún huyết : là Phun máu, mửa máu.
- Khế 憩: là nghỉ ngơi, Nghỉ mệt. Tiểu Khế 小憩 : là nghỉ xả hơi một chút.
- Nhàn Thân : Tấm thân nhàn hạ.
- Bán Chẩm : là Nửa gối.
- Phún huyết : là Phun máu, mửa máu.
* Nghĩa Bài Thơ :
Nghỉ Tạm Ở Một Thôn Của Nam Sơn
Nghỉ Tạm Ở Một Thôn Của Nam Sơn
Vì bản thân nhàn rổi nên như đám mây nhẹ trôi từ nam đến bắc. Làn gió mát thổi nhè nhẹ bên gối, tâm tình lâng lâng như vượt khỏi cuộc đời nầy. Cỏi Phật rất thanh tịnh u nhã như xa hẵn cỏi trần. Trước sân một con chim oanh hót đến mửa máu ra ( vì phải mang cái nghiệp ca hót của cỏi trần thế !).
* Diễn Nôm :
Thân nhàn nam bắc dõi mây xa,
Nửa gối ngoài đời gió thoảng qua.
Cỏi Phật thanh u xa cỏi tục,
Ngoài sân mửa máu một oanh ca !
Lục bát :
Thân nhàn nhẹ tựa mây bay,
Thoát tình nhân thế gió lay gối đầu.
Lánh trần cỏi Phật thanh u,
Trước sân nặng nghiệp máu trào oanh ca !
Thân nhàn nam bắc dõi mây xa,
Nửa gối ngoài đời gió thoảng qua.
Cỏi Phật thanh u xa cỏi tục,
Ngoài sân mửa máu một oanh ca !
Lục bát :
Thân nhàn nhẹ tựa mây bay,
Thoát tình nhân thế gió lay gối đầu.
Lánh trần cỏi Phật thanh u,
Trước sân nặng nghiệp máu trào oanh ca !
6. Bài thơ Vọng Thái Lăng :
望泰陵 Vọng Thái Lăng
松秋深鎖日將夕, Tùng thu thâm tỏa nhựt tương tịch,
煙草如苔迷亂石。 Yên thảo như đài mê loan thạch
黯淡千山風更愁, Ảm đạm thiên sơn phong cánh sầu
消沉萬古雲無跡。 Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
溪花欲落雨絲絲, Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
野鳥不歸山寂寂。 Dã điểu bất quy sơn tịch tịch.
幾度躊躇行復行, Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
平蕪無盡春生碧。 Bình vu vô tận xuân sanh bích.
朱文安 Chu Văn An
* Chú thích :
- Vọng : là Trông ngóng, là Nhìn về...
- Tùng thu : Những cây thông vào mùa thu.
- Thâm Tỏa : là Khóa kín, ở đây có nghĩa là Phủ trùm.
- Yên Thảo : Cỏ xanh mờ như khói.
- Tiêu Trầm : là Chìm đắm.
- Dã Điểu : Những con chim ngoài đồng nội.
- Bình Vu : là Cánh đồng hoang vu, là Đồng trống.
Trong bài thơ có 2 từ Hán Việt mà nghĩa rất thông dụng là :
- Trù Trừ 躊躇 : là Do dự không quyết.
- Ảm Đạm 黯淡 : là Trời mờ mờ tối. Vì là trời của mùa thu, như cụ Nguyễn Du đã tả trong Truyện Kiều :
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây.
* Nghĩa bài thơ :
Trông Ngóng về hướng Thái Lăng
Những cây thông vào mùa thu vẫn xanh om phủ kín khi ánh nắng đã về chiều, cỏ xanh mờ ảo như rêu phủ mờ các tảng đá ngổn ngang. Ngàn núi chìm trong ảm đạm nên gió thổi càng cảm thấy buồn hơn, từ vạn cổ tiêu trầm tan biến nên mây không còn để lại vết tích gì nữa cả. Hoa trong khe suối muốn rụng cả trong cơn mưa phùn lất phất như tơ, những con chim ngoài đồng nội không bay về nên núi rừng càng vắng lặng. Mấy lần ta do dự trù trừ muốn đi rồi lại muốn đi, trong cảnh hoang vu mênh mông vô tận trong sắc màu biêng biếc tựa mùa xuân.
* Diễn Nôm :
Rừng thông phủ kín nắng chiều tắt,
Cỏ phủ rêu xanh đá chất ngất.
Ảm đạm ngàn non gió gợi sầu,
Tiêu trầm muôn thuở mây bay mất.
Chim không về tổ núi im lìm,
Hoa rụng theo dòng mưa lất phất.
Mấy lượt trù trừ đi lại đi,
Hoang vu vô tận xuân ngây ngất !
Lục bát :
Rừng thông phủ kín nắng tàn,
Cỏ mờ rêu nhạt ngổn ngang đá luồn.
Âm u ngàn núi gió buồn,
Tiêu tan mất hút mây tuôn muôn đời.
Bên khe hoa rụng mưa rơi,
Chim chiều đâu vắng núi đồi lặng yên.
Trù trừ cất bước chẳng nên,
Mênh mông xuân biếc gợi thêm nỗi niềm !
Đỗ Chiêu Đức
松秋深鎖日將夕, Tùng thu thâm tỏa nhựt tương tịch,
煙草如苔迷亂石。 Yên thảo như đài mê loan thạch
黯淡千山風更愁, Ảm đạm thiên sơn phong cánh sầu
消沉萬古雲無跡。 Tiêu trầm vạn cổ vân vô tích.
溪花欲落雨絲絲, Khê hoa dục lạc vũ ti ti,
野鳥不歸山寂寂。 Dã điểu bất quy sơn tịch tịch.
幾度躊躇行復行, Kỷ độ trù trừ hành phục hành,
平蕪無盡春生碧。 Bình vu vô tận xuân sanh bích.
朱文安 Chu Văn An
* Chú thích :
- Vọng : là Trông ngóng, là Nhìn về...
- Tùng thu : Những cây thông vào mùa thu.
- Thâm Tỏa : là Khóa kín, ở đây có nghĩa là Phủ trùm.
- Yên Thảo : Cỏ xanh mờ như khói.
- Tiêu Trầm : là Chìm đắm.
- Dã Điểu : Những con chim ngoài đồng nội.
- Bình Vu : là Cánh đồng hoang vu, là Đồng trống.
Trong bài thơ có 2 từ Hán Việt mà nghĩa rất thông dụng là :
- Trù Trừ 躊躇 : là Do dự không quyết.
- Ảm Đạm 黯淡 : là Trời mờ mờ tối. Vì là trời của mùa thu, như cụ Nguyễn Du đã tả trong Truyện Kiều :
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây.
* Nghĩa bài thơ :
Trông Ngóng về hướng Thái Lăng
Những cây thông vào mùa thu vẫn xanh om phủ kín khi ánh nắng đã về chiều, cỏ xanh mờ ảo như rêu phủ mờ các tảng đá ngổn ngang. Ngàn núi chìm trong ảm đạm nên gió thổi càng cảm thấy buồn hơn, từ vạn cổ tiêu trầm tan biến nên mây không còn để lại vết tích gì nữa cả. Hoa trong khe suối muốn rụng cả trong cơn mưa phùn lất phất như tơ, những con chim ngoài đồng nội không bay về nên núi rừng càng vắng lặng. Mấy lần ta do dự trù trừ muốn đi rồi lại muốn đi, trong cảnh hoang vu mênh mông vô tận trong sắc màu biêng biếc tựa mùa xuân.
* Diễn Nôm :
Rừng thông phủ kín nắng chiều tắt,
Cỏ phủ rêu xanh đá chất ngất.
Ảm đạm ngàn non gió gợi sầu,
Tiêu trầm muôn thuở mây bay mất.
Chim không về tổ núi im lìm,
Hoa rụng theo dòng mưa lất phất.
Mấy lượt trù trừ đi lại đi,
Hoang vu vô tận xuân ngây ngất !
Lục bát :
Rừng thông phủ kín nắng tàn,
Cỏ mờ rêu nhạt ngổn ngang đá luồn.
Âm u ngàn núi gió buồn,
Tiêu tan mất hút mây tuôn muôn đời.
Bên khe hoa rụng mưa rơi,
Chim chiều đâu vắng núi đồi lặng yên.
Trù trừ cất bước chẳng nên,
Mênh mông xuân biếc gợi thêm nỗi niềm !
Đỗ Chiêu Đức
Nguồn: Từ email của anh Đỗ Chiêu Đức.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!