HÃY NHÌN LỊCH SỬ VIỆT NAM
KHÔNG THIÊN KIẾN
Bài viết của Nguyễn- Chương
Té ra lịch sử nước
nhà (1945-1954) bị hiểu xộc xệch, bởi bị nhấn chìm trong mê hồn trận của các
quan điểm, rối còn hơn canh hẹ.
Thành thử, trước hết và trên hết, cần
phải nhìn dòng chảy sự kiện lịch sử đúng như nó đã từng xảy ra! Mọi nhận xét về
bản chất của từng thể chế, thiên ái hoặc công kích, chưa phải là điều tôi đặt
ra trong bài viết này.
A/ Với sự thoái vị của vua Bảo Đại
(25/8/1945), nhà nước quân chủ Đại Nam chấm dứt, giao quyền cho chánh phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hòa (Democratic Republic of Vietnam).
B/ Éo le ở chỗ: chánh phủ VNDCCH dù
nhận được sự thoái vị từ Bảo Đại, và dù tuyên bố độc lập vào 2/9/1945, nhưng Đồng
Minh bấy giờ không công nhận.
Vì sao?
Chiếu theo những qui định của khối
Đồng Minh (Hội nghị Teheran, Hội nghị Yalta, Hội nghị Postdam) về việc giải
giáp phe Trục trên toàn cầu, trong đó có Nhựt:
/1/ Những chánh phủ nào từng hiện hữu
độc lập TRƯỚC khi bị Nhựt Bổn xua quân chiếm đóng => Đồng Minh công nhận
(như trường hợp chánh phủ của Trung Hoa Dân quốc);
/2/ Đồng Minh không công nhận nếu
rơi vô 2 trường hợp sau:
(2a) Không công nhận những chánh phủ
thành lập dưới sự bảo trợ của Nhựt. Như Mãn Châu quốc với hoàng đế Phổ Nghi.
Như “Đế Quốc VN” của chánh phủ Trần Trọng Kim thành lập tháng 3/1945 dưới sự bảo
trợ của Nhựt Bổn (tỉ dụ vẫn còn tiếp tục hiện hữu, tức nếu không xảy ra sự kiện
Việt Minh cướp chánh quyền 19/8 đi nữa, chánh phủ Trần Trọng Kim vẫn không được
Đồng Minh công nhận);
(2b) Không công nhận những chánh phủ
nào thành lập SAU thời điểm Nhựt đã đầu hàng Đồng Minh (sau ngày 15/8/1945), tức
thời điểm rơi vào “khoảng trống quyền lực”. Như trường hợp chánh phủ VNDCCH.
C/ Đối với những quốc gia rơi vào
trường hợp /2/ => Đồng Minh dùng phương án giải giáp và phân chia khu vực để
quản trị tạm thời trong vài năm, sau đó sẽ thực hiện việc giao lại chủ quyền
cho những chánh phủ bổn xứ (nằm trong những thỏa thuận có liên quan đến các quốc
gia thuộc khối Đồng Minh).
Như nước Đức, bán đảo Cao Ly, Việt
Nam.
- Tại Đức: Các khu vực miền tây do
Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản trị, sau đó vào tháng 5/1949 hợp nhứt hình thành CHLB
Đức; khu vực miền Đông do Liên Xô quản trị, đến tháng 10/1949 ra đời CHDC Đức.
- Bán đảo Cao Ly: Khu vực miền bắc
vĩ tuyến 38 do Liên Xô quản trị, miền Nam do Hoa Kỳ quản trị, sau đó vào năm
1948 sự quản trị của Đồng Minh được giao lại cho 2 nhà nước bổn xứ là Triều
Tiên (miền bắc), Hàn Quốc (miền nam).
- Tại Việt Nam: Đồng Minh vào giải
giáp và quản trị, miền bắc vĩ tuyến 16 giao cho Trung Hoa Dân quốc, miền Nam
giao cho Anh. Sau đó, việc quản trị này được Trung Hoa Dân quốc lẫn Anh thỏa
thuận giao lại cho Pháp. LƯU Ý: Vai trò của Pháp trong giai đoạn này là một quốc
gia được khối Đồng Minh ủy nhiệm quản trị lãnh thổ VN, chớ không còn tư cách của
một nhà nước thuộc địa Pháp như trước đây nữa (là thời kỳ từ Hòa ước Patenotre
1884 đến lúc bị Nhựt đảo chính, 1884-1945).
Thể chế VNDCCH bấy giờ được xem là
một thực thể chánh trị, đã có hàng loạt cuộc tiếp xúc song phương với Pháp nhằm
thương lượng về thẩm quyền chính thức của chánh phủ VNDCCH. Hiệp ước Sơ bộ được
ký, theo đó VNDCCH được công nhận là "một quốc gia tự do, nằm trong Liên
Hiệp Pháp".
Sự gãy đổ chóng vánh Hiệp ước Sơ bộ
sau đó, dẫn đến việc chánh phủ VNDCCH rút vào khu vực rừng núi, và Pháp rút lại
sự công nhận tư cách VNDCCH như "một quốc gia".
Từ 1945 cho đến cuối năm 1949,
VNDCCH không được bất cứ quốc gia nào (kể cả Liên Xô) công nhận hết.
D/ Tóm lại, trên bình diện công
pháp quốc tế, từ tháng 8/1945 cho đến năm 1949, Việt Nam là lãnh thổ thuộc thẩm
quyền Đồng Minh ủy nhiệm cai quản (giao cho Trung Hoa Dân quốc & Anh, sau
đó giao trọn cho Pháp), không hiện hữu VNDCCH như một quốc gia thủ đắc chủ quyền
thực sự (mà chỉ là một thực thể chánh trị).
E/ Pháp ôm ấp mưu đồ kéo dài vô thời
hạn sự quản trị ủy nhiệm đối với VN, biến VN trở thành thuộc địa như thời kỳ
trước năm 1945.
Tuy nhiên, căn cứ vào các Hiệp định
của Đồng Minh - là sau một thời gian quản trị, phải giao lại chủ quyền đối với
các nhà nước bổn xứ (như Mỹ và Liên Xô thực hiện tại Đức, tại bán đảo Cao Ly),
thành thử Pháp không thể trì hoãn, "ầu ơ ví dầu"...
Bởi vậy mới có Hiệp ước Élysée,
trong bối cảnh chánh trị hậu Thế chiến II thúc đẩy "giải trừ thực dân
hóa" (decolonization), theo đó hình thành Quốc Gia Việt Nam (State of
Vietnam) ngày 8/3/1949, thủ đô đặt tại Sài Gòn.
Đến đầu năm 1950, có 35 quốc gia
công nhận Quốc Gia Việt Nam.
F/ Trước tình thế vừa kể, khối xã hội
chủ nghĩa (cộng sản) lập tức công nhận VNDCCH như một quốc gia (thủ đô của
chánh phủ VNDCCH nằm ở vùng rừng núi Tuyên Quang). Đầu tiên là nhà cầm quyền Bắc
Kinh vào đầu tháng 1/1950, kế đến Liên Xô cho tới lúc này mới công nhận VNDCCH
(vào cuối tháng 1/1950), rồi một số nước Đông Âu... Tổng cộng khoảng 10 quốc
gia công nhận VNDCCH.
G/ Tuy nhiên, trong giai đoạn
1949-1954 (trước Hội nghị Geneve), chánh phủ Quốc Gia Việt Nam vẫn được xem là
đại diện của nước VN; từ đây đã dẫn đến việc quốc tế mời QGVN tham dự Hội nghị
đa quốc gia San Francisco 1951. Với tư cách pháp nhân chính thức, chánh phủ của
QGVN đã minh định chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Cũng tại Hội
nghị này, đề nghị của Liên Xô giao Hoàng Sa, Trường Sa cho nhà cầm quyền Bắc
Kinh bị bác bỏ.
H/ Với chiến thắng Điện Biên Phủ,
thể chế VNDCCH mới có tiếng nói tại một hội nghị đa quốc gia, đó là Hội nghị
Geneve 1954.
Chánh phủ VNDCCH sở hữu chủ quyền
lãnh thổ phía bắc vĩ tuyến 17. Chánh phủ QGVN sở hữu chủ quyền lãnh thổ phía
nam vĩ tuyến 17.
(năm 1955, QGVN giải thể, trao lại
thẩm quyền cho thể chế Việt Nam Cộng Hòa).
Đọc tham khảo,cần đối chiếu nhiều nguồn tài liệu lịch sử để
kiểm chứng.
Nguồn: Từ Fb của Nguyễn- Chương
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!