MAI
“yết hậu”
Rét buốt ủ mầm đợi mãn khai
Mặc mưa gió quất vẫn trang đài
Tương lai lặng lẽ về nơi ấy
Mai.
Như Thị
BÀI HỌA:
MAI
“Yết hậu”
Đợi chờ xuân đến, đóa hoa khai
Dưới nắng, lung linh nét diễm đài
Vàng rực, vẫy chào ong bướm ghé
Mai
Sông Thu
MAI
“ Yết Hậu”
Long lanh nắng chiếu nụ hoa khai
Rực rỡ tươi xinh nét các đài
Nở rộ dâng lên Chùa cúng Phật
Mai
Minh Thúy
MAI
“Yết hậu”
Rực rỡ hoa vàng đã thịnh khai
Hoàng kim chan chứa phấn hương đài
Ngàn thiên tinh cũng nhường xuân sắc
Mai
Cao Mỵ Nhân
MAI
“ Yết hậu”
Vun trồng bón vén đón mầm khai
Vần vũ mưa giông vẫn nẩy đài
Bôn tẩu xuôi miền tìm bến đổ
Mai.
Phan Thanh Xuân
MAI
“ Yết hậu”
Thứ ba Tam Hữu tiết đông khai,
Ngất ngưỡng thanh tân mãn kính
đài.
Ngũ phúc hương trời năm cánh tỏa...
Mai !
Đỗ Chiêu Đức
MAI
Lái xe mệt quá nghỉ đi Tài
Mấy dặm sơn khê một quãng dài
Chợp mắt yên tâm nằm đợi sáng
Mai
Mai Xuân Thanh
MAI
“Yết hậu”
Đất trời từ thuở mới sơ khai
Bát ngát rừng xanh dưới
nguyệt đài
Tươi thắm sắc vàng em nở rộ
MAI
Thy Lệ Trang
NẺO VỀ
“Yết hậu”
Đêm thiền an lạc sáng tâm khai
Dạ thoảng hương sen mượt dáng đài
Chọn đúng đường đi lòng chẳng hẹn...
MAI !
Như Thu
MAI
“Yết hậu”
Rộ nở hoa vàng thắm nhụy khai
Đón xuân vừa đến điểm gương đài
Đông về mặc kệ nào chi sá
Mai
NS-Canada
HÀN MAI
Cuối đông, tuyết trắng bông
chưa khai,
Lạnh lẽo ngàn hoa núp kín
đài,
Chợt thấy cây gì vàng cánh
nở!!!
Hàn mai.
Nguyễn Thị Mỹ Ngọc
MAI MỒNG 1 TẾT
Trang trí ba mươi hoa chửa khai
Nụ vàng he hé mỉm vui đài
Nàng dâu ướm hỏi khi nào nở
MAI !
Trần Như Tùng
LỄ NHẬP MÔN
(Thơ yết hậu )
Bái thầy sôi oản lễ tâm khai
Mỹ quả hương hoa cúng Phật đài
Sớm được thành danh mau dạ sáng:
Mai
Thanh Hòa
NHỊ ĐỘ MAI
Vườn lam đào núi ửng thời khai
Ao tịnh sen thanh trắng mấy đài
Ngõ tự trúc duyên vàng nhị độ
Mai.
Thiền Sư Xóm Núi
NAY
“Yết Hậu”
Quay đầu,dự tưởng đã ly khai
Hết mộng ngày sau chết tượng đài
Sống thực từng giây,thôi đuổi bắt
Mai !
Lý Đức Quỳnh
TỨ TUYỆT:
TRĂNG
“Chơi chữ”
H hững chi làm tội nghiệp M
K ngâm vẫn lội xuống bên thềm
Đ mê đắm đuối nào ai f
T tái cùng đông tỏa nỗi niềm.
Như Thị
DUYÊN NGHIỆP
“Chơi chữ ,các dấu huyền,sắc
,ngã,nặng”
Huyền nhiệm là nơi nhập cõi thiền
Sắc không phàm thánh cũng là tiên
Ngã văn vô tướng chơn như thể
Nặng gánh phong trần bởi nghiệp
duyên
Như Thị
BÀI HỌA:
THƯƠNG
“Chơi chữ”
Kh mà cũng biết chịu thương M
Th thẫn sương buông đọng trước thềm
L lững đò xuôi về bến Z
Ch nhau chất chứa biết bao niềm.
Phan Tự Trí
TÙY DUYÊN
“Chơi chữ ,các dấu huyền,sắc
,ngã,nặng”
Huyền không nào dám cưỡi mây thiền
Sắc bất ba đào đắm cõi tiên
Ngã giáo nhất kinh mà dưỡng tử
Nặng lòng cho lắm cũng tùy duyên.
Phan Tự Trí
QUỲNH, TRĂNG VÀ SƯƠNG
“ Chơi chữ”
N đến đây rồi, sao tránh M ?
Hững H rọi chếch mái hiên thềm
Sương L mờ phủ trên đài mỏng
T dại, Đ mê hưởng trọn niềm...
Sông Thu
DUYÊN NGHIỆP
“Lục thanh”
Huyền diệu cơ may đến cửa thiền
Hỏi rằng chốn ấy cõi thần tiên ?
Sắc tài bỏ lại không cơ hội
Ngã rẽ chối từ chẳng nợ duyên
Nặng chữ sân si, xin trút bỏ
Không còn vương vấn khổ triền
miên.
Sông Thu
THOÁT
“Chơi chữ ,các dấu huyền,sắc
,ngã,nặng”
Huyền vi nhắm mắt nhập tham thiền
Sắc diện an nhàn thoát cõi tiên
Ngã chấp hồng trần thân tứ đại
Nặng nề nghiệp chướng muốn hoàn
duyên
Minh Thuý
CHÁN
“ Chơi chữ”
Thủa ấy đôi mình gặp ruộng Đ
Anh thường cứ mãi tới xàng C
Vân V tình cảm chừ thay đổi
B đống thư tình đốt tái T
Minh Thuý
SAO
“ Chơi chữ”
S sờ ngơ ngẩn dung nhan M
M thoáng bâng khuâng đợi trước thềm
C biết rằng T hồn thổn thức
Y bao nhung nhớ mãi riêng niềm ...
Cao Mỵ Nhân
DUYÊN NGHIỆP
“sắc, không, hỏi, ngã, nặng, huyền”
Sắc Không sao nỡ gọi tâm thiền
Hỏi phải tu hành mới đúng tiên
Ngã Nặng từ phen ngồi tán Phật
Huyền hư còn tưởng lẽ chân duyên
...
Cao Mỵ Nhân
THOẢ
“ Chơi chữ”
C xích lưa thưa nắng vương thềm
E dè khép cửa đón màn đêm
B bưng ủ gió chiều đông tới
H mãi hồn tôi thỏa nỗi niềm.
Phan Thanh Xuân
NỢ DUYÊN
“ Chơi chữ, các dấu Huyền, Sắc,
Ngã, Nặng”
Huyền ảo lung linh ẩn cửa thiền
Sắc tâm bất động hoá thần tiên
Ngã vi hoãn thiện hung đầu đáo
Nặng nghĩa tình trần trả nợ duyên.
Phan Thanh Xuân
NHỚ
“Chơi chữ”
N - K bài H tặng riêng M,
H hững M đi bước lạnh thềm.
T tái tim N chừ giá buốt,
F lòng nhưng vẫn nhớ bao niềm !
Đỗ Chiêu Đức
NGHIỆP
Huyền vi ảo diệu chẳng qua thiền,
Sắc sắc không không Phật Thánh
Tiên.
Ngã bổn vô tâm chơn thực tánh,
Nặng mùi tục lụy hỏi trần duyên !
Đỗ Chiêu Đức
TRĂNG
“ Chơi Chữ”
Hững H bỏ mặc khổ cho M
K nhạc trăng khuya lạnh trước
thềm
Ai F đâu nào do tự nguyện
Cùng N thưởng thức tỏ bao
niềm
MAI XUÂN THANH
DUYÊN NGHIỆP
“Chơi Chữ các dấu Huyền Sắc
Ngã Nặng”
Chị Huyền nương bóng Đạo tham
thiền
Sắc nước hương trời Phật
Thánh Tiên
Ngã kiểu Hồ Xuân Hương nổi
tiếng (1)
Vai thon gánh Nặng nghiệp cùng
duyên
MAI XUÂN THANH
(1) Hồ Xuân Hương xuất khẩu
thành thơ khi bị té ngã như sau :
"Dang tay vói thử trời cao
thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn
dài"
CHỜ...
“Chơi chữ”
CH mãi, N buồn chẳng gặp M
Lững L trăng nhẹ lướt qua thềm
Mênh mang gió buốt hồn T dại
K lại bài xưa, gơi nhớ niềm...
Thy Lệ Trang
KHÔNG ĐỀ
“Chơi chữ các dấu huyền , sắc, ngã nặng”
Huyền ảo đường mây một góc
thiền
Sắc trời, hoa lá chốn thần
tiên
Ngã về an nghĩ nơi nào nhỉ?
Nặng mối quê nhà, nặng mối
duyên !
Thy Lệ Trang
GẮNG ĐỢI...
“Chơi chữ”
Th thẫn bao ngày gắng đợi M
B trăng say ngủ vắt ngang thềm
Hồn N lạnh buốt thân ph phạc
Khẽ H vu vơ gửi trọn niềm...
Như Thu
DUYÊN TẠM
“Chơi chữ các dấu huyền, ngã,
sắc, nặng”
Huyền diệu làm sao buổi tọa
thiền!
Ngã buông chẳng trụ...mối đầu
tiên
Sắc nhìn mọi cảnh nào sinh tướng
Nặng chốn ta bà chỉ tạm duyên !
Như Thu
ĐỢI CHỜ
“Chơi chữ”
H khúc ân tình để tặng M
K bài “chờ đợi” dưới hiên thềm
Lờ Đ dòng nước về đâu nhỉ
F cánh hoa lòng T buốt niềm …
NS-CANADA
HUYỀN DIỆU
“Chơi chữ các dấu huyền, sắc,
hỏi ,nặng”
Huyền diệu âm thanh nơi chốn thiền
Sắc thu man mác cảnh đào tiên
Hỏi chàng Lưu Nguyễn về đâu rứa
Nặng bước giang hồ lỡ mất duyên !
NS-CANADA
TIẾNG HÁT ĐÊM TRĂNG.
“Chơi chữ”
H hò trăng sáng ở quê M,
K sĩ người nghe tụ trước
thềm.
Đ đẫn trai làng mê vọng cổ,
T lòng thôn nữ có riêng niềm.
Nguyễn thị
Mỹ-Ngọc
AM THIỀN.
“Chơi chữ các dấu huyền, sắc,
ngã, nặng”
Huyền mơ hoa lá trước am
thiền,
Sắc nước hương sen tưởng cảnh
tiên.
Ngã bóng chiều về chuông mõ
vọng,
Nặng lòng chưa thoát nợ trần
duyên.
Nguyễn thị
Mỹ-Ngọc
VỀ DINH
“Chơi chữ”
H lí ngựa Ô đi chứ M
L mờ trăng khuyết ngó vô thềm
V vê tà áo ngồi chăm chú
O chị “ về dinh “ quyết một niềm .
Trần Như Tùng
HUYỀN DIỆU
“Hỏi ,sắc, ngã, nặng”
HỎI đáp dưỡng sinh dẫn cách thiền
SẮC nhan trụ vững tiện đường duyên
NGÃ ba hạnh phúc đò đang đợi
NẶNG kén e rằng khó gặp tiên
Trần Như Tùng
GẶP NHAU
(Chơi chữ)
V như chẳng biết đó là M
L cả lời thưa trước bực thềm
Đ đẫn nhìn anh mà choáng váng
Ng cho chàng dấu biết bao niềm!
Thanh Hòa
THIỀN ĐỊNH
(Chơi chữ các dấu Huyền Ngã Sắc Nặng)
Huyền diệu biết bao khi tọa thiền
Ngã nào trụ nữa, cảnh thiên tiên
Sắc không,không sắc đều vô tướng
Nặng nghiệp trần gian, vướng nợ
duyên
Thanh Hoà
CHỜ
(Các chữ xê,em,hát,lờ,tê)
C dịch mây trời gió đón M
H ca luân vũ nguyệt soi thềm
L mờ bóng ảnh cầu sương đợi
T buốt dòng Ngân thảng thốt niềm
Lý Đức Quỳnh
HỎI TRĂNG
(Các dấu hỏi,sắc,ngã,nặng)
Hỏi trăng viễn xứ trú am thiền
Sắc tướng trong ngần bản thể tiên
Ngã chấp hay vì mong độ thế
Nặng tình luyến ái cõi trần duyên
?
Lý Đức Quỳnh
DẠI KHỜ
Phạc PH T tái khổ thân M
Vân V tà áo đứng bên thềm
Ai F M đâu mà kể lể
KH khạo nên M chịu nỗi niềm
Thiền Sư Xóm Núi
VẤN NẠN
SẮC không,KHÔNG sắc vấn nạn
thiền
HUYỀN ảo trường sinh vốn đạo
tiên
NẶNG nợ trăm năm vòng thế tục
HỎI rằng vô NGÃ thị vô duyên ?
Thiền Sư Xóm Núi
Thăm huynh đọc thơ và học hỏi -huynh ơi cái thể thơ yết hậu nó như thế nào hả huynh ?
Trả lờiXóaCảm ơn NVT đã thăm!
XóaYết hậu là một trong những thể loại của thơ Đường Luật.
Nó là một dạng Tứ Tuyệt,nhưng câu cuối được kết(yết hậu) chỉ có một chữ làm vần với các câu trên.
Cái khó khi viết là câu trên phải cầu nối được với chữ cuối để nó không bị lạc lõng và vô nghĩa.
Cái thú của người đọc là có được một điềm nhấn như để liên tưởng và xâu chuỗi được ý nghĩa của cả bài,như một dấu lặng,một hụt hẫng là khởi động một tiến trình suy tư.
Chúc Đệ an lành nhé !
Cảm ơn huynh đã trả lời cho đệ một cách cặn kẽ như thế này -chúc huynh một ngày mới an lành nhé
Trả lờiXóaKhông có chi.
XóaChúc Đệ an vui mọi ngày nhé!