Ở ĐỜI, CÓ NHỮNG OÁN HẬN CHẲNG THỂ
NÀO NGUÔI.
ĐỌC “NGUYỄN TRÃI TRƯỚC GIỜ TRU DI”
của Trần Mạnh Hảo
Bình Thơ: Vũ Bình Lục
Trên đường pháp trường con dâu ta
trở dạ
Tiếng cháu thét chào đời như tiếng
ngàn chim lợn báo tang
Đội ơn vua ban tã lót
Để cháu khỏi bị chém trần truồng
trên thớt
Ôi con đường ba họ ta đến nơi thọ
hình
Sao dài hơn đường mười năm Lam Sơn
phò Thái Tổ
Ông Cao Xanh bỏ kinh thành về rừng
xưa ở
Nơi vua lấy đất làm ngai, tình
huynh đệ làm long bào
Nơi ta mót dần xã tắc cho vua như
mót lúa
Chừng như ta đã đi con đường này từ
ải Bắc
Tiễn cha già hay đưa tiễn đời ta ?
Đêm mưa đá, mưa tròng ngươi, mưa
xuống nghìn con mắt
Ôi xã tắc
Con đường nào cũng dẫn đến pháp
trường
Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay
đao phủ
Thân tùng bách há phải thân mùng tơi
Mây trắng xưa ơi
Sao giờ toàn những đám mây mưng mủ
Ta thương xã tắc không mất về tay
giặc
Lại mất về tay bọn gian thần
Triều đình ai cũng là Lê Sát
Mắt thiên tử như Nam hải, đố ai lấp
đầy giai nhân
Luân thường đem gác gác bếp
Chỉ ba ông đầu rau nhìn thấy dân
Ôi Hàn Tín, Phạm Tăng, Phàn Khoái
Gió trung thần đang hú gọi hồn đi
Dưới vòm trời Lã Hậu
Mưa tru di đỏ rực gió lăng trì
Lẽ nào gươm Hán Cao Tổ cùn đến vậy
?
Thị Lộ ơi, dưới lòng sông hẳn nàng
nóng ruột đợi ta
Rắn quyền lực muôn đời còn phục đấy
Đôi ta bị trói chặt vào nhau bằng
dây trói mãng xà
Vẫn biết vân cẩu bày trò sinh diệt
chơi
Lịch sử cợt đùa sai đúng
Sao cứ quặn lòng nhìn đám trẻ lôi
thôi
Đội ơn vua không trói chúng
Tội chết chém còn được ơn vua ban
đao phủ cõng
Giá chỉ mình ta chui qua lỗ nẻ giữa
đất dày trời cao
Ừ, mây mù vừa làm cỏ sạch trăng
sao
Chợt gió dữ tru di mây trời từng
đám
Mặt trời văng ra như đầu thánh hiền
bị trảm
Sao phép nước dùng dao chém đại thần
Để chém trẻ sơ sinh ?
Mai sau lấy gì chém sông núi ?
Đầu người đang rụng quanh ta
Máu là nước lũ Hồng Hà dời non
Hồn ta là đứa trẻ con
Đi vào cõi chết vẫn còn ngu ngơ
Nỗi oan không chết bao giờ
Ta còn bị chém dọc bờ thế nhân.
Sài gòn 9-93
T.M.H
Tôi đọc “Nguyễn Trãi trước giờ tru
di” của Trần Mạnh Hảo, đúng vào ngày giỗ người Anh hùng dân tộc, tại làng Nhị
Khê, Thường Tín, quê nội ông, cũng là nơi hiện có đền thờ Nguyễn Trãi.
Thế là đã gần sáu trăm năm, một vụ
án oan, vô cùng thảm khốc, giết cả ba họ Đại công thần khai quốc Nguyễn Trãi đã
chìm vào quá vãng, như một vết bầm tím đau thương của lịch sử dân tộc. Nguyễn
Trãi, Nguyễn Thị Lộ, cùng hơn bảy chục người trẻ già gái trai vô tội, phải rơi
đầu trong một sớm. Dẫu rằng vua Lê Thánh Tông sau đó 22 năm đã minh oan cho
Nguyễn Trãi, nhưng những kẻ thủ mưu tàn độc thì vẫn lẩn khuất đâu đó sau tấm
rèm vàng son quyền lực, không có ai dám chỉ mặt vạch tên. Một câu chuyện lịch sử
bi thương đã gần sáu trăm năm, vẫn chưa hề cũ. Nó vẫn còn “mưng mủ”, còn nhức
nhối trong lòng các thế hệ hậu sinh ! Trần Mạnh Hảo là một trong những nhà thơ
đã thể hiện thành công cảm xúc của mình, bằng một bài thơ khá dài.
Một bài thơ viết theo lối trực cảm,
nhưng lại khéo mượn lời nhân vật trữ tình. Mà có lẽ cũng chỉ bằng cách ấy, mới
có thể chuyển tải mạch tâm tư tình cảm của người viết một cách hữu hiệu, “nhất
cử lưỡng tiện”. Mở đầu là cảnh Nguyễn Trãi cùng ba họ, hơn bảy chục người bị dẫn
ra pháp trường. Trong số những người sắp bị chết chém ấy, lại có một phụ nữ đột
nhiên sinh nở. Và tiếng trẻ sơ sinh bất chợt thét lên, thảm thiết, “như tiếng
ngàn chim lợn báo tang”… Đứa trẻ ấy, đương nhiên cũng không được phép tồn tại,
vì nó đã chẳng may là cháu của “tội nhân”Nguyễn Trãi (!). Chỉ có một ân huệ vua
ban, ấy là cho tã lót, “để cháu khỏi chết trần truồng trên thớt”, thế thôi… Một
chi tiết có thể là do tác giả tưởng tượng thêm thắt vào, nhưng giết hết già trẻ
gái trai ba họ là có thực, nên hình ảnh có thể là tưởng tượng thêm, nhưng không
vì thế mà không gây xúc động.
Đoạn thơ tiếp đó diễn tả những suy
tư của Nguyễn Trãi, về con đường chính trị của mình. Mở đầu là con đường tiễn
cha (Nguyễn Phi Khanh) lên ải Bắc, theo bước chân tù binh vong quốc, cùng cha
con Hồ Quý Ly. Tiếp theo là con đường tìm vào Lam Kinh tụ nghĩa cùng Lê Lợi,
làm nên sự nghiệp giải phóng dân tộc oai hùng. Để rồi cho đến hôm nay, đau đớn
thay, rốt cục lại là con đường dẫn cả ba họ đến pháp trường oan nghiệt.
“Ôi con đường ba họ ta đến nơi thọ
hình / Sao dài hơn con đường mười năm Lam Sơn phò Thái Tổ / …nơi vua lấy đất
làm ngai, tình huynh đệ làm long bào / nơi ta mót dần xã tắc cho vua như mót
lúa”… Đó là những câu thơ giàu hình tượng, giàu liên tưởng, có tính khái quát
cao. Thì ra con đường ta đã chọn, đã đi, cho dù đó là con đuờng chân chính, con
đường đại nghĩa, cuối cùng, hoá ra lại là con đường dẫn đến cái chết oan khốc
này ư ? Sự nghiệp cứu dân tộc thoát khỏi xâm lăng lớn lao như vậy, suốt mười
năm trời ta cúc cung tận tụy, cùng vua “nếm mật nằm gai”, “ta mót dần xã tắc
cho vua như mót lúa”, ấy thế mà ngày nay bỗng dưng lại phải chuốc lấy nỗi đau
thê thảm này ư ? Hoá ra, kết cục bi thảm này, đã khởi nguồn từ con đường ta tiễn
cha lên ải Bắc ? Ngổn ngang chất chứa, uất hận dâng trào, bởi oan khuất đắng
cay. Người anh hùng như rơi từ cao vời hy vọng, xuống vực thẳm tột cùng tâm trạng,
cho nên, “con đường ba họ ta đến nơi thọ hình” mới là “con đường dài hơn mười
năm Lam Sơn phò Thái Tổ”… Con đường vinh quang giờ đây, có ai ngờ, uất hận, oán
hận bầm tím cả trời xanh. Hình như nhân vật trữ tình, mãi đến khi đầu sắp lìa
khỏi cổ, mới chua chát nhận ra rằng: “Ôi xã tắc / con đường nào cũng dẫn đến
pháp trường / bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ”…
Trần Mạnh Hảo đã dũng cảm viết được
những câu thơ người khác có thể nghĩ ra, nhưng không có đảm khí viết ra. Trong
bụng thi nhân đã chất chứa nhiều sách vở, đã no đầy lịch sử, nên một chân lý
ngàn đời, giản dị như sự thật, được khái quát bằng vài câu thơ không phải gọt đẽo
gì, mà rưng rưng đến thế!
Trước giờ tru di, chắc rằng Nguyễn
Trãi nghĩ ngợi lung lắm. Con người có tài lương đống, rường cột của nước nhà,
quý hiếm như phục linh hổ phách kia, thừa biết những bài học cổ kim bên Tàu bên
ta, trên trời dưới đất. Chuyện xa như Hàn Tín, Phạm Tăng, Phàn Khoái… đời Hán
Cao Tổ, rồi Văn Chủng với Việt Vương Câu Tiễn, Ngũ Viên với Ngô Vương Phù Sai
bên Tàu ở đời Chiến quốc…Lại còn những chuyện còn tươi ròng nóng hổi, như chuyện
Phạm Văn Xảo, với chuyện người anh em bên ngoại của ông là Trần Nguyên Hãn, phải
nuốt hận chết oan vì cường quyền và gian thần tác yêu tác quái, như còn nghe
xào xạc “gió trung thần đang hú gọi hồn đi”… Biết, mà sao không biết ? Bởi Tiên
sinh quá tin vào tấm lòng trong sáng của ông ! Bởi nhiệt tình yêu nước thương
dân của ông vẫn “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”! Bởi tấm lòng “trung mấy
hiếu” của ông “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”! Niềm tin trong sáng trong
tâm hồn Ức Trai, trước giờ tru di, mới hoàn toàn sụp đổ: “ Mây trắng xưa ơi /
sao giờ toàn những đám mây mưng mủ / ta thương xã tắc không mất về tay giặc / lại
mất về tay bọn gian thần / triều đình ai cũng là Lê Sát / mắt thiên tử như Nam
hải, đố ai lấp đầy giai nhân”… Rồi “ Dưới vòm trời Lã Hậu / mưa tru di đỏ rực
gió lăng trì”. Nguyễn Trãi cất tiếng gọi Thị Lộ, người vợ yêu cùng chung số phận
cay nghiệt với mình, rồi ông kết luận : “Rắn quyền lực muôn đời còn phục đấy”.
Ngoái nhìn lũ trẻ vô tội sắp chết oan, ông xót xa thương cảm, quặn đau khôn tả:
“Lịch sử cợt đùa sai đúng / sao cứ quặn lòng nhìn đám trẻ lôi thôi / đội ơn vua
không trói chúng / tội chết chém còn được vua ban đao phủ cõng”…Trước sau Nguyễn
Trãi nghĩ nhiều, thương cảm nhiều nhất với lũ trẻ đáng thương, vì ông mà mang vạ.
Tác giả như muốn khắc sâu thêm nỗi niềm chua xót của Ức Trai, đồng thời lên án
sâu sắc tội ác tày trời của cường quyền tha hoá đương thời, và của mọi thời.
Thế rồi giờ hành quyết đã đến. Nguyễn
Trãi chứng kiến cảnh “đầu người đang rụng quanh ta”, chứng kiến cảnh “mây mù
làm cỏ sạch trăng sao”, cảnh “gió dữ làm cỏ sạch mây trời từng đám / mặt trời
văng ra như đầu thánh hiền bị trảm”, rồi ông như thét lên, chất vấn trời xanh,
chất vấn chính mình:
“Sao phép nước dùng dao chém đại thần
/ để chém trẻ sơ sinh / mai sau lấy gì chém sông núi?” … Đến lượt đầu Ức Trai
văng ra khỏi cổ, hình như ông mới hay rằng mình còn ngu ngơ, “đi vào cõi chết vẫn
còn ngu ngơ”! Và ông như tự mình rút ra một chân lý vĩnh cửu: “Nỗi oan không chết
bao giờ / ta còn bị chém dọc bờ thế nhân !”…
Phải có tấm lòng đồng điệu đồng cảm
sâu sắc với người xưa, mới có thể viết được những câu thơ cảm động đến vậy. Trần
Mạnh Hảo như trút hết tâm can mình vào câu chữ. Khí thơ khi dồn nén, khi trào
sôi phẫn uất, phăm phăm như thác cuốn, đôi khi khiến những con chữ cũng phải
băm bổ đuổi theo mà chưa kịp. Thông qua những day dứt suy tư của nhân vật trữ
tình Nguyễn Trãi, cùng một vụ án oan khốc có một không hai trong lịch sử dân tộc,
đến nay vẫn còn như “mưng mủ”, tác giả muốn ký thác nhiều điều, muốn cảnh tỉnh
nhiều điều, tưởng như đã cũ, mà chắc là không bao giờ cũ. Cái ác vẫn còn đang
ngự trị khắp nơi, một khi con người còn mang trái tim quỷ dữ !
Điểm nhấn của bài thơ “Nguyễn Trãi
trước giờ tru di” tập hợp ở chữ “Ngu ngơ”. Một thiên tài trác việt, đôi khi
cũng chỉ là một kẻ Ngu ngơ. Lên đoạn đầu đài, mới kịp nhận ra mình ngu ngơ,
ngây thơ như con trẻ ! Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã từng viết “Hoạ
phúc hữu môi phi nhất nhật / anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Hoạ phúc vốn có mầm,
đâu phải do một ngày sinh ra / Người anh hùng ôm hận mấy ngàn năm). Ông biết rồi,
biết kỹ, sao còn ngu ngơ mắc vào sự khốn cùng đau xót đến vậy ? Chỉ có trời
xanh mới biết !
Trần Mạnh Hảo là một thi sỹ có tài.
Anh cũng là người tâm huyết với lịch sử, tâm huyết với đời, tâm huyết với văn
chương. Hơn thế, anh còn là một nhà thơ can đảm, có cá tính, rất đáng nể trọng.
Thơ Trần Mạnh Hảo đúng là thơ thể hiện đậm nét cái chí của anh, cái phong cốt của
anh, cho dù đôi khi anh quá hào phóng phung phí ngôn từ, tự phô ra cái “gót
chân A-sin” chết người của mình. Nhưng tấm lòng anh chân thật. Đó mới là chỗ để
anh có thể tự hào, để người đọc cảm thông, thể tất và chia sẻ !
Hà Nội 18-10-2010
Vẫn còn nhiều trường hợp oan khiên bị khuất lấp khi bánh xe lịch sử tiến lên, nhất là với những người thấp cổ, bé miệng.
Trả lờiXóaKhông biết đến bao giờ những người ấy mới giải được nỗi oan, nhưng chắc chắn rằng ai gây ra oan khiên sẽ bị báo ứng; không chỉ bị báo ứng một đời, ba đời, mà là rất nhiều đời con cháu về sau cũng bị báo ứng!
Vâng,thấp cổ bé miệng phải chịu oan khiên là điều rất thường và thời nào cũng có.Khai quốc công thần như Nguyễn Trãi cũng phải gánh chịu nỗi oan khiên thấu trời thì khó mà tiêu tan được.
XóaNgười vì dân vì nước,kẻ thì nịnh hót...thời nào cũng có,nhưng có được một đấng minh quân thì hiếm thay!
Hôn quân chỉ biết nghe lời xu nịnh.Minh quân biết trọng dụng nhân tài.Đất nước thịnh suy cũng từ đây mà ra.
Cảm ơn DVD,chúc bạn an vui !