Mùa Xuân Nói Chuyện... Mê Gái !
Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
(Nguyễn Giản Thanh)
Tuổi
Xuân, tuổi người
Người ta
thường ví một đời người như bốn mùa xuân hạ thu đông. Vì vậy, mùa xuân là mùa
của tuổi trẻ, mùa của yêu đương. Từ yêu đương mà đâm ra mê thì đâu có bao xa!
Đầu đề
tôi viết là mê gái, mê vợ, nhưng có lẽ nào lại không có chuyện mê trai, mê
chồng. Có điều lạ, trong lịch sử cũng như trong văn học, trong đời thường, đàn
ông, con trai mê gái nhiều hơn đàn bà, con gái mê chồng, mê trai.
Vậy thì
bây giờ, nói cái gì trước, về phái nam hay phái nữ?
Nếu nói
về đàn bà, trước hết xin nhắc đến câu ca dao:
“Tay
mang khăn gói sang sông,
Mẹ
kêu mặc mẹ theo chồng cứ theo.”
Sự kiện
nầy, không hẵn chỉ có một mình cô gái trong câu ca dao nói trên, mà hầu như gần
hết cô nào, bà nào cũng vậy. Nghe theo tiếng gọi của chồng là bỏ nhà, bỏ mẹ, có
khi đi không quay mặt ngó lui nữa. Thế có phải là... mê trai?
Người con
gái Việt Nam khá lãng mạn. Này nhé: “Thương nhau cởi áo cho nhau, Về nhà mẹ hỏi
qua cầu gió bay.” Ở cái xã hội xưa, nặng lễ giáo mà dám cởi áo
cho...trai, huống chi đời bây giờ thì sao?
Trong
lịch sử nước ta (VN), người đầu tiên mê trai là ai?
Là Công
chúa Tiên Dung đấy.
Cô là con
vua Hùng Vương thứ 3, đi chơi tới môt khúc sông, thấy cảnh đẹp và buồn tình lên
bãi cát bên sông tắm chơi. Các con hầu vây màn, che kín cho công chúa tắm. Nước
sông trong mát, thế là công chúa dội ào ào vào mình. Nước làm cát trôi đi, làm
lộ ra anh chàng đánh cá Chử Đồng Tử đang phủ cát trên mình, trốn ở dưới. Tuy
hoảng hồn, như công chúa Tiên Dung cũng đủ bình tĩnh hỏi ra cớ sự. Hồi xưa trai
gái gặp nhau đã khó, huống chi gặp nhau trong cảnh ai nấy cũng A-Dong và Ê-Và.
Thế rồi Tiên Dung bảo đây là duyên trời định, bèn chọn Chử Đồng Tử làm chồng,
và dựng nhà ngay ở bờ sông ấy mà sống với người mới.
Nhà vua
gọi, Tiên Dung không chịu về. Vua cho quân lính đến bắt, chuyện xảy ra lung
tung cả lên, để rồi cuối cùng, hai người cùng bay lên cõi tiên (xem phụ lục).
Câu
chuyện nầy có vài điều vượt khỏi luân lý ngày trước. Công chúa Tiên Dung tự ý
chọn chồng mà không hỏi ý kiến cha mẹ, nói chi tới việc xin xỏ phép tắc. Lấy
nhau mà chẳng cưới hỏi gì cả, “ba miếng trầu” cũng không là điều trái phong
tục, lễ nghĩa. Cha mẹ gọi không về! Không về, nếu không phải là mê trai thì là
còn cái gì nữa đây?
Trong
lịch sử nước ta, đâu phải chỉ có một mình công chúa Tiên Dung! Mỵ Châu nặng tội
hơn nhiều. Cũng vì mê Trọng Thủy, Mỵ Châu lén lấy nỏ thần đưa cho chồng xem.
Anh chàng “tình báo nam nhân kế” bèn thay cái lẫy nỏ thật móng thần kim qui
bằng cái giả, khiến Thục Phán mất nước về tay Triệu Đà.
Ngày nay,
đôi khi chúng ta nghe câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan “Nhớ nước đau
lòng con quốc quốc” hay Nguyễn Khuyến hỏi “Ấy hồn Thục Đế chết
bao giờ?” không mấy ai nghĩ tới việc Mỵ Nương vô tình giết cha, làm
gia đình tan nát, làm nước mất về tay giặc bên chồng hay sao?
Người ta
thường tranh cải việc người đàn bà đã mê chồng nhưng ít thấy họ thiếu thủy
chung. Chuyện Dương Quí Phi chẳng hạn. Có thể Dương Quí Phi yêu vua Đường Minh
Hoàng nhiều lắm chứ, yêu thêm Lý Bạch, lại yêu luôn cả An Lộc Sơn, nên mới có
cái loạn An Lộc Sơn?
Bao Tự có
khác chi?
Châu U
Vương mê Bao Tự đến nỗi cho phóng hỏa trên núi Cam Tuyền. Thế nhưng Bao Tự có
thủy chung với Châu U Vương đâu? Tây Thi của Ngô Phù Sai, lại bỏ theo Phạm Lãi
sau khi ngai vàng Ngô Phù Sai sụp đổ. Còn như “con Điêu Thuyền” (tiếng gọi của
mấy bà ưa đọc truyện xưa) thì quá lắm. Trong khi làm vợ Đổng Trác, lại liếc mắt
đưa tình với Lữ Bố, khiến cha con giết nhau. Có người bênh vực, cho rằng Điêu
Thuyền “hoàn thành xuất sắc” cái nhiệm vụ được giao đấy!
“Quốc sắc
Thiên hương”
(Sắc đẹp
đàn bà con gái)
Văn
chương không thiếu những câu tán tụng sắc đẹp đàn bà con gái.
Quốc sắc triêu hàm tửu
Thiên
hương dạ nhiễm y
Có
nghĩa là “Sắc nước sáng say rượu. Hương trời tối ướt áo”.
Điển
tích về người đẹp thì như trong Cung Oán Ngâm Khúc viết:
Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa
Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình
Câu thứ nhứt thứ nhì là
“Chim sa, cá lặn”, câu thứ ba là “nguyệt thẹn, hoa nhường”.Câu cuối có nghĩa là
đẹp hơn cả Tây Thi, Hằng Nga.
Nụ
cười của Bao Tự hay của giai nhân làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực.
Thơ
Vương Tăng Nhu vịnh người hầu yêu: “Nhất tiếu thiên kim mãi” có
nghĩa là “một nụ cười ngàn lạng vàng cũng mua”.
“Nhất
tiếu khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành”.Cười một cái thì làm “nghiêng nước”.
Cười lần nữa thì “nghiêng thành”, người ta thường gọi tắt là “Nghiêng nước,
nghiêng thành”.
Sắc
đẹp làm cho “nghiêng nước nghiêng thành” mà người đời ca ngợi, có hay ho gì
đâu? Đó là thói đa tình, cái đa tình chỉ làm hư thiên hạ. Người xưa họ cũng
biết đấy chứ: “Khuynh quốc khuynh thành vị đa tình” (Nghiêng
nước nghiêng thành vì bởi thói đa tình).
Biết thì
biết vậy mà bỏ thì không bỏ được.Thành ra, “Tự cổ mỹ nữ danh họa thủy”(Từ
xưa người con gái đẹp đều là mối tai họa).
Cái đẹp
của người đàn bà, và cái giỏi của người đàn ông gần nhau mà kết quả ngược nhau:
Kinh thi có câu:
Triết phu
thành thành, Triết phụ khuynh thành.
Nghĩa là: Người đàn ông giỏi dựng nên một thành trì, người đàn bà đẹp làm nghiêng đổ thành trì.
Hồi còn
nhỏ, nhỏ lắm, nhà tôi ở cạnh bệnh viện Quảng Trị, tôi từng thấy một anh thanh
niên bị bệnh điên. Người ta bảo anh ấy bị sa tình. Sa tình là cái gì? Là sa vào
đường tình ái, rồi thất tình nên phát bệnh điên. Tôi không tin điều ấy. Nhưng
khi lớn lên, đọc lịch sử, lịch sử văn học, tôi thấy nhiều người, phần nhiều là
đàn ông, mê gái còn hơn bị bệnh điên nữa, yêu hay mê đến nỗi xiêu đổ thành
quách, đến nỗi mất nước mất nhà thì không là điên hay sao, hay còn tệ hại hơn
cả điên, hơn cả “đem tiền cho gái có đòi được không?” Mất tiền là còn nhẹ quá.
Trong lịch sử, người ta còn “nặng” hơn nhiều.
Số đàn
ông mê gái thì đông hơn mà cũng khủng khiếp hơn. Người ta có thể điểm mặt từng
người trong sách sử:
Vua Châu
U Vương mê Bao Tự chẳng hạn.
1)- Châu
U Vương
“nước mất
nhà tan” vì Bao Tự:
U Vương
nhà Tây Chu vì mê Bao Tự đến nỗi mất mạng, mất nước.Dĩ nhiên, Bao Tự là một
giai nhân, tuy không được liệt vào “tứ đại mỹ nhân” của Tàu.
Trong
văn học Tàu có câu “Nhất tiếu thiên kim”, có nghĩa là nụ cười đáng giá ngàn
vàng cũng chưa nói hết cái tai hại của nụ cười Bao Tự. Còn như câu “Nhất tiếu
khuynh quốc, tái tiếu khuynh thành” (cười làm nghiêng nước, nghiêng thành) thì
cũng xứng với nụ cười Bao Tự.
Bao
Tự ít khi cười, mà khi đã cười thì làm mê mẩn tâm thần ông vua nhà Chu.Vì vậy,
ông Châu U vương bèn tìm cách làm cho Bao Tự vui, Bao Tự cười.
Trong
Tỳ Bà Hành có câu “Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, Ngựa sắt rong, sàn
sạt tiếng đao, Cung đàn lựa khúc tiêu tao, Tiếng buông xé lụa, lựa
vào bốn dây” là nói tới nụ cười Bao Tự. Đó là việc thứ nhất, Châu
U vương cho xé lụa từng cây làm cho Bao Tự cười. Tiếng lụa bị xé vang lên nghe
như tiếng đàn.
Thứ
hai là khói báo tin có giặc. Trong Chinh Phụ Ngâm có câu: “Khói Cam Tuyền mờ
mịt thức mây” (Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt
thức mây) là việc Châu U Vương đốt lửa trên “Phong hỏa đài”.
Phong hỏa
đài là một phương tiện thông tin ngày xưa, để báo cho chư hầu biết kinh đô có
giặc. Một hôm U Vương cho đốt khói lên, chư hầu tưởng có loạn kéo quân về cứu
giá. Té ra đó chỉ là việc vua nhà Châu gạt chư hầu cho Bao Tự cười vui. Cái trò
chơi dại dột ấy làm cho chư hầu tức giận. Về sau, khi giặc có thật, vua đốt khói
trên Phong hỏa đài, chư hầu cứ nghĩ rằng vua lại gạt, nên không đem quân về, để
cho U Vương nhà Chu bị giặc giết chết ở núi Ly. Bao Tự thuộc về tay rợ Khuyển
Nhung, cuối cùng thắt cổ tự tận, xong một đời khuynh quốc khuynh thành.
2)- Hán
Nguyên Đế giữ được giang sơn nhà Hán,
nước Tàu
được yên nhờ có Chiêu Quân
Chiêu
Quân còn gọi là Vương Tường, Vương Chiêu Quân, một
trong “tứ đại mỹ nhân”. Cái
đẹp của Chiêu Quân thuộc hàng “chim sa” trong thành ngữ “chim sa cá lặn”, Tàu
gọi là “trầm ngư lạc nhạn”. Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” có câu “Lững da trời
nhạn ngẩn ngơ sa” là mượn điển tích nầy.
Sách cũ
viết rằng khi Chiêu quân sang đất Hồ (Hung Nô), ngang qua một sa mạc lớn, lòng
buồn vì thân phận, vì xa quê, đang ngồi trên lưng ngựa, Chiêu quân
bèn gãy bản đàn tên “Xuất tái khúc”. Tiếng đàn hay đến nỗi con ngỗng trời đang
bay ngang qua, nghe tiếng đàn mà ruột gan đứt đoạn, sa xuống đất chết. Đó là
điển tích “lạc nhạn”.
Hồ Hán Tà
là vua xứ Hung Nô dọa đem quân đánh phá nước Tàu, nếu vua Tàu không gả cho y
một công chúa. Thay vì gả công chúa, vua Nguyên Đế nhà Hán gả cho y 5 cung nữ,
dĩ nhiên, cung nữ thì không ai xấu bao giờ. Thấy vua Hán lấy 5 mà đổi 1, y bằng
lòng.Một trong năm cung nữ, có Vương Tường.
Tuy
nhiên, trường hợp Chiêu Quân có nhiều oan trái hơn.
Chiêu Quân
vốn có sắc đẹp tuyệt hạng, lại có tài đàn hay hát giỏi. Vì vậy, khi được tuyển
vào cung, Chiêu Quân không chịu đút tiền hối lộ cho tên thợ vẽ Mao Diên Thọ.
Mao Diên Thọ trả thù bằng cách khi vẽ hình Chiêu Quân xong, y thêm một chấm đen
dưới con mắt của cô. Sách tướng nói chấm đen đó là nốt ruồi “thương phu trích
lệ” (Giọt nước mắt khóc chồng), tức là tướng sát phu (giết chồng).
Khi gọi
Chiêu Quân lên để đưa sang xứ Hung Nô, nhà vua thấy Vương Tường đẹp quá, muốn
giữ lại, nhưng ngại triều thần, đành phải cho đi mà lòng tiếc rẻ.
Về cái chết của Chiêu Quân có nhiều giả thuyết khác nhau:
a)- Đến “Nhạn
Môn Quan”,
Chiêu Quân gieo mình xuống sông tự vẫn.Khi đi qua cửa ải cuối cùng nầy,
Chiêu Quân cảm tác nhiều bài thơ hay, hòa cùng tiếng đàn của Chiêu Quân, trở
thành điển tích Hồ
Cầm.
Cung
thương làu bậc ngũ âm
Nghề
riêng ăn đứt hồ cầm một chương
là hai
câu thơ nói về tài đàn của Thúy Kiều (truyện Thúy Kiều).
b)- Chiêu
Quân đến đất Hồ, nàng yêu cầu vua Hồ giết chết gian thần Mao Diên Thọ, rồi sau
đó nàng tìm cách tự tử, nhảy xuống sông để xác nàng theo dòng trôi trở về đất
Trung Nguyên.
c)- Một
thuyết khác cho rằng Chiêu Quân đã sống một thời gian dài bên Hung Nô.
Chiêu
quân đã góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà Hán và Hung Nô (Hồ).
Phải nhờ
đến sự hy sinh của một người đàn bà để vua quan dân chúng Tàu được yên thân, có
thể đó là điều không vinh dự gì cho người Tàu và cho cả lịch sử Tàu.
Người
Việt Nam khéo léo phê phán bằng một bài thơ:
Vương
Tường oán triều đình (1)
Vật chi muông cỏ dám lăng loàn?
Âu hẳn trong triều ít kẻ ngoan? (2)
Mặt thấy thư Hồ, văn vỡ mật,(3)
Tai nghe nhạc bắc, võ run gan.
Mỡ thơm luống để nuôi thù khấu? (4)
Bùn sũng nào hay đắp ải quan?
Vực nước ví dầu tài Vệ, Hoắc, (5)
Tanh hôi chi để lụy hồng nhan?
ghi chú:
1)- Vương Chiêu Quân là cung nữ của vua Hán Nguyên Đế, gả Chiêu Quân cho chúa Hung Nô để đổi lấy quan hệ hòa hiếu. Nàng chịu sang Hung Nô nhưng cuối cùng vì buồn thương và uất hận nàng đã tự vẫn.
2)- Câu
thơ 3 và 4: Sự hèn nhát của các quan trong triều.
3)- Chỉ MaoDiên
Thọ, tên thợ vẽ gian tham.
5)- Thù
khấu: Kẻ thù
5)- Vệ, Hoắc:
Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, hai người đánh tan được quân Hung Nô (đời Hán).
Năm 1309,
Huyền Trân Công chúa về Chiêm quốc với Chế Mân. Triều thần có người không
thuận.Trong dân chúng có bài thơ nói về việc Chiêu quân cống Hồ để ám chỉ việc
gả công chúa Huyền Trân.
Vua Hán
dụ Vương Tường
gả cho
chúa Thuyền Vu.
Hán
Hồ dẫu muốn vẹn trăm đường
Há
trẫm riêng tây có phụ nường
Bắc
quốc tuy rằng ngoài dị vực
Biên
đình song cũng một biên cương
Ở
đây hạnh thắm nên mai nhạt
Về
đấy sen tàn lổi cỏ hương
Hơn
thiệt tôi đừng ai oán nữa
Chờ
ngày áo gấm lại hoàn hương.
Việc ví
von như thế nầy là khiên cưỡng. Hành động của Huyền Trân Công Chúa cao quí hơn
hành động của Vuơng Tường nhiều!
Quang
Dũng có bài thơ chê vua Hán như sau:
Tuyết lạnh che mờ trời Hán Quốc
Tì bà lanh lảnh buốt cung Thương
Tang tình năm ngón sầu dâng lệ
Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ xang
Đây Nhạn Môn Quan đường ải vắng
Trường Thành xa lắm Hán Vương ơi!
Chiêu Quân che khép mền chiên bạch
Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi
Ngó lại xanh xanh triều Hán Đế
Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung
Quân vương chắc cũng say và khóc
Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng
Hồ xang hồ xang xự hồ xang
Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng
Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống
Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.
Tản Đà có bài văn tế
Nguyễn Thiện Kế dịch
ra Nôm
Cô ơi, cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc,
thợ trời cũng thua
Một đi, từ biệt cung vua
Có về đâu nữa, đất Hồ ngàn năm!
3)-
Trường Hận Ca:
Thiên
tình hận giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi.
Khi xưa
ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ
nàng làm Dương Quí Phi
(Diễm
Trang - Vũ Hân)
Dương
Quí Phi (719- 756, sau CN) là cung phi của vua Đường Minh Hoàng, một trong “tứ đại mỹ nhân”, sắc
đẹp khiến hoa héo vì hổ thẹn (tu hoa).
Dương Quý Phi tên thật là Dương Nguyệt Nhi, lúc còn nhỏ tên Mai, sau gọi là
Dương Ngọc Hoàn, quê ở Tứ
Xuyên. Năm 17 tuổi, Ngọc Hoàn được tuyển vào cung làm vợ Thọ Vương Lý Mão, con
vua Đường Minh Hoàng. Lý Mão còn nhỏ lắm.
Khi ấy,
Vũ Huệ phi rất được Đường Minh Hoàng sủng ái, mới qua đời.Vua Đường thương nhớ
vô cùng.
Cao Lực
Sĩ bèn lập mưu, đưa Ngọc Hoàn vào chùa chăm sóc nhang khói cho Vũ Huệ Phi. Sau
đó, đưa Ngọc Hoàn vào chầu Đường Minh Hoàng. Nhà vua được Ngọc Hoàn, bèn say
mê, phong làm Quí Phi, gọi là Dương Quí Phi. Như vậy, có nghĩa là Dương Quí Phi
lấy cha chồng.
Dương Quí
Phi thường đi tắm suối ở Tây An. Nay ở đây người ta dựng tượng Dương Quí Phi
tắm suối để kỷ niệm (xem hình).
Câu
chuyện tình Lý Bạch và Dương Quí Phi
Lý
Bạch là người nổi tiếng hay thơ. Ai cũng ca ngợi. Riêng Cao Lực Sĩ và Dương
Chấp Trung, anh của Quí Phi, chê rằng tài Lý Bạch chỉ đáng mài mực và cởi giày
cho thiên hạ.
Bấy
giờ vua Hung Nô gởi thư cho vua Đường Minh Hoàng bằng tiếng Hung Nô. Triều thần
không ai đọc được, vua phải triệu Lý Bạch vào.Lý Bạch đọc thư và giải thích cho
vua nghe.Vua rất tán thưởng, lệnh cho Lý Bạch viết thư trả lời. Bạch vâng mệnh
nhưng để trả mối hận bị chê bai, xin vua ra lệnh Cao Lự Sĩ cởi giày và Dương
Chấp Trung mài mực cho ông ta viết thư.
Dương Quí
Phi và Lý Bạch là người cùng thời. Lý Bạch cũng được Đường Minh Hoàng trọng vì
tài, thường vời vào cung cùng vua và Dương Quí Phi ngắm hoa, ngắm cảnh và làm
thơ. Bạch Cư Dị làm thơ tả sắc đẹp Dương Quí Phi, có hai câu đời sau còn nhắc
nhở:
Phù
dung như diện, liễu như mi
nghĩa là
mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu.
Về
sau, Đường Minh Hoàng không còn trọng đãi Lý Bạch nữa, ông xin cáo quan, chỉ
xin một điều, vua ban cho một lệnh bài, đi đến đâu, uống rượu khỏi trả tiền.
Chủ quán nhận tiền ở quan lại địa phương.
Một
đêm, Lý Bạch chơi thuyền trên sông, quá say, thấy trăng ở đáy nước, bèn nhảy
xuống sông, ôm trăng mà chết.
Tôi
không tin câu chuyện nầy. Quan hệ giữa Lý Bạch và Dương Quí Phi có thể quá gần
gũi, không khiến cho Đường Minh Hoàng ghen hay sao? Vì vậy, khi Đường Minh
Hoàng không ái mộ Lý Bạch nữa nên Bạch buồn tình xin cáo quan. Biết đâu, cái
đêm trăng Lý Bạch chết, không phải ông ta nhảy xuống sông mà có thể một tên nào
đó, giả dạng theo hầu Lý Bạch, đạp cho ông ta một đạp rớt xuống sông, để Đường
Minh Hoàng thỏa mãn được việc ghen tuông.
Chuyện
đã gần hai ngàn năm. Thuở ấy, sợ vua, ai dám điều tra. Ngày nay dù tôi “ăn ốc
nói mò”, biết đâu lại là chuyện thiệt!
Sắc đẹp
Dương Quí Phi
Như
đã nói, sắc đẹp của Dương Quí Phi được Bạch Cư Dị mô tả là “Phù dung
như diện, liễu như mi”. Xin nói thêm, hoa phù dung là tên chữ. Tiếng Việt
gọi là bông cẩn (bông bụp), người Bắc gọi là hoa dâm bụt.
Lý Bạch
trong “Thanh Bình
Điệu” ca
tụng sắc đẹp của Ngọc Hoàn.
Vân tưởng
y thường, hoa tưởng dung,
Xuân
phong phật hạm, lộ hoa nùng.
Nhược chi
quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng
Dao đài nguyệt hạ phùng.
Ngô
Tất Tố dịch:
Thoáng
bóng mây hoa, nhớ bóng hồng.
Gió xuân
dìu dặt giọt sương trong
Ví chăng
non ngọc không nhìn thấy,
Dưới
nguyệt đài Dao thử ngóng trông.
Lại trong
“Trường Hận Ca”, nói về mối hận tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi
(vua ra lệnh giết cô ta), Bạch Cư Dị viết về Dương Quí Phi như sau:
Qui lai
trì uyển giai y cựu
Thái Dịch
phù dung Vị Ương liễu;
Phù dung như diện liễu như mi
Đối thử
như hà bất lệ thùy?
Cũng
trong bài thơ, tả tình vua Đường Minh Hoàng nhớ Dương Quí-Phi có câu:
“Phù-dung
như diện liễu như mi” nghĩa là hoa phù-dung như mặt, lá dương-liễu như mày.
Tản Đà
dịch:
Phù dung
đó! Mặt ai đâu tá?
Mày liễu đâu? Cho lá còn như!
Càng trông hoa liễu năm xưa,
Càng xui nước mắt như mưa ướt đầm.
Nhà
thơ Đinh Hùng tán tụng:
...
Thoáng nét sương, nụ cười in khuôn ngọc,
Em bâng khuâng hé nửa cặp môi hồng,
Mắt nhắm nghiền, và sóng ngực rung rung,
Hơi thở ấm não nùng hương phấn dại ...
(Giáp Mặt Phù Dung)
Phù
dung, trong tiếng Việt, cũng có nghĩa là “hút thuốc phiện”, có khi gọi là “Ả
Phù Dung”. Đinh Hùng là một đệ tử của “Ả”.
Khi
ở cung, Dương Quí Phi thường nhớ nhà.Môt hôm ra vườn ngự uyển, nhằm lúc hoa
đang nở rộ. Thấy hoa, Dương Quí Phi than thở phận mình, nước mắt tuôn rơi. Khi
Phi đưa tay sờ vào hoa, hoa khép cánh lại. Do câu chuyện nầy, sử Tàu gọi Dương
Quí Phi là “người đẹp tu hoa”, nói theo thành ngữ là “hoa nhường nguyệt thẹn”.
Có
người không tin câu chuyện hoa nầy, cho rằng thiên hạ vẽ vời, biết đâu Dương
Quí Phi sờ nhằm vào cây mắc cở, văn vẻ thì gọi là cây trinh nữ.
Dương
Quý Phi đã đẹp lại có tài gảy đàn tỳ bà, giỏi
về âm nhạc.
Nàng lại đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho
Huyền Tông càng thích thú say sưa hơn.
Loạn An
Lộc Sơn
An
Lộc Sơn (ALS), gốc là người “Rợ Đột Quyết” (một chủng loại với Mông Cổ) là
tướng được Đường Minh Hoàng yêu vì. Khốn nỗi, Dương Quí Phi lại tư thông với
ông tướng đẹp trai nầy. An Lộc Sơn thù ghét Dương Quốc Trung, anh của Dương Quí
Phi. Ông nầy dựa vào thế em gái, lộng quyền ở cung. An Lộc Sơn đem quân về
Trường An, quyết dẹp bỏ gian thần.
Quân
của An Lộc Sơn đánh bại quân của triều đình.
Vua
Đường Minh Hoàng phải nhường ngôi cho con để lên làm thái thượng hoàng. Tuy
vậy, quân của triều bình vẫn liên tiếp bị đại bại. Thượng hoàng cùng Dương Quí
Phi chạy vào đất Thục.
Đến Mã Ngôi (năm 756), binh lính không chịu chống giặc nữa. Chúng buộc nhà vua phải giết Dương Quí Phi mới chịu tuân lệnh vua vì cho rằng chính sự gian dâm giữa Dương Quí Phi với An Lộc Sơn gây nên mối loạn nầy.
Vì
sức ép của binh lính, Đường Minh Hoàng ra lệnh thắt cổ Dương Quí Phi, lúc ấy bà
mới 38 tuổi, chôn xác ở ven đường.
Sau
đó vua quan nhà Đường dẹp được loạn An Lộc Sơn, giành lại đất đai cũ.
Dương
Quí Phi là giai nhân. Câu chuyện tình giữa bà và An Lộc Sơn không phải là do sự
dâm dục mà ra, chứ là gì? Vua thì đã già, lại từng hoang dâm vô độ, nên sinh lý
đã yếu làm sao “thỏa mãn” Dương Quí Phi đang tuổi xuân.
Sự
dâm dục đã tạo nên một thiên tình hận, mà Bạch Cư Dị gọi là “Trường Hận Ca”.
Không ít người tiếc cho cái sắc đẹp của bà, nên cũng không ít người làm thơ.
Người
xưa đâu thì tận mắt tôi không thấy, nhưng thi sĩ Vũ Hân khi dạy trường Bồ Đề
Huế thì tôi gặp không ít lần, gặp ngoài đường phố, hay ở tòa soạn báo Mùa Lúa
Mới hay ở nhà thi sĩ Đỗ Tấn. Nhìn ông thấy mà tội nghiệp. Ông bị tật bẩm sinh,
đi đứng không bình thường. So sánh ông với Đường Minh Hoàng thì cũng là khiên
cưỡng. Và ông cũng có một Dương Quí Phi. Điều đáng buồn là sau khi Việt Cộng
“giải phóng miền Nam”, ông bị đuổi khỏi trường Bồ Đề, và Dương Quí Phi của ông
cũng “ôm cầm thuyền ai”, theo một An Lộc Sơn “nón cối dép râu” như nhà thơ đỏ
chống cộng cuội NMH đang nổi cộm trên các diễn đàn mạng ngót 15 năm.
Ông Vũ
Hân chết trong cảnh nghèo đói, cô đơn (xem phụ lục).
Ông
cũng từng mơ Dương Quí Phi hay sao nên ông ước:
“Khi
xưa ta là Đường Minh Hoàng
Ta mơ em
là Dương Quí Phi.”
4)- Ngô
Phù Sai
mất nước
vì Tây Thi?
Sự
ưu ái của Ngô Phù Sai đối với Tây Thi, trong sử sách cũng ít thấy ai sánh bằng.
Để làm vui lòng giai nhân, vua sai:
Dựng “Cô
Tô đài cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang sức
toàn bằng châu ngọc để làm chỗ cho Tây Thi ra chơi.
“Ở đó có
lập ra Hưởng Điệp lang. Tại sao lại gọi là Hưởng Điệp? Điệp là chiếc guốc.
Nguyên là người ta đào hầm ở dưới đất chỗ hành lang, đặt ở đó rất
nhiều chum, bên trên lát ván, để Tây Thi và cung nhân đi guốc lượn ở đó,
tiếng kêu leng keng, cho nên gọi là hưởng điệp.
“Trên
núi có hồ Ngoạn Hoa, ao Ngoạn Nguyệt.
“Lại có
giếng gọi là giếng Ngô Vương, nước trong suốt, Tây Thi thường đứng ở trên mà
soi mặt, Phù Sai đứng ở bên cạnh, sẽ lấy tay vuốt tóc cho Tây Thi.
“Lại có
động gọi là động Tây Thi, Phù Sai và Tây Thi cùng ngồi ở đó, đá
ở ngoài cửa động có nhiều chỗ sụt, nay người ta gọi là vết chân Tây Thi.
“Trên
núi lại có Cầm Đài, Phù Sai thường cùng với Tây Thi gảy đàn
ở đó.
“Phù
Sai lại sai người trồng hoa ở Hương Sơn, để Tây Thi và cung nhân chở thuyền đi
hái hoa. Nay vẫn còn một dãi nước ở phía nam núi Linh Nham, đó tức là chỗ Tây
Thi hái hoa ngày xưa.
“Lại có
Thái Liên hình ở phía đông nam thành đô, đó là chỗ Phù Sai cùng Tây Thi hái
sen.
“Phù
Sai lại bắt đào một con sông nhỏ ở trong thành, từ nam sang bắc, rồi làm cái
buồm gấm để đi chơi thuyền, gọi là Cẩm Phàm hình.
“Phía
nam đô thành có Trường Châu uyển, để làm nơi săn bắn.
Lại có Ngư Thành để nuôi cá,
Áp Thành để nuôi vịt,
Kê Bi để nuôi gà,
Tửu Thành để nấu rượu.
“Lại
thường cùng với Tây Thi ra nghỉ mát tại Nam Loan ở Tây động đình, đó là một cái
vịnh độ hơn mười dặm, ba mặt đều là núi, chỉ có mặt nam trông như cửa khuyết.
Phù Sai cho chỗ ấy là một nơi có thể qua mùa hè được, mới đặt tên là chỗ Tiên.
Tây Thi
người nước Việt, sống vào thời Xuân Thu, 506 trước Công Nguyên, không rõ mất
lúc nào, năm nào, ở đâu, là một trong “tứ đại mỹ nhân” của Tàu.
Khi cô gái giặt áo bên bờ sông, bóng soi trên mặt
nước sông trong suốt làm thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả
bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng
là “Tây
Thi Trầm Ngư”.
Ngô
Việt đánh nhau, Việt Câu Tiễn đại bại, bị bắt. Văn Chủng, quân sư của Việt Câu
Tiễn, hiến kế mỹ nhân để lung lạc, làm suy yếu nước Ngô.
Câu
Tiễn tuyển hai ngàn mỹ nữ dâng cho Phù Sai, trong đó, đẹp nhất là Trịnh Đán và
Tây Thi.
Tây
Thi góp công lớn trong việc làm cho Ngô Phù Sai ham mê tửu sắc, bỏ bê triều
chính, nên Việt Câu Tiễn phục hận, giành lại đất nước.
Sau
khi đại thắng, vợ Việt Câu Tiễn muốn mưu hại Tây Thi vì sợ Câu Tiễn sẽ mê say
cô ta mà di vào con đường như Phù Sai.
Tây
Thi và Phạm Lãi có tư tình với nhau từ trước nên cả hai trốn vào Ngũ Hồ, về sau
không ai biết hai người đi đâu .Có người bảo rằng Tây Thi đã tự vẫn.
Tô Đông Pha có bài
thơ về Tây Thi:
Thủy
quang liễm diễm tình phương hảo
Sơn sắc
không mông vũ diệc kỳ
Dục bá
Tây Hồ tỉ Tây Tử
Đạm tran
nồng mật tổn tương nghi
(Nước dập
dờn bừng khi nắng dọi,
Nước nhạt
nhoà xanh lúc mưa về
Tây Hồ ví
tựa Tây Thi
Điểm
tranh đậm nhạt vẽ gì cũng xinh
Người
ta thường cho rằng Ngô Phù Sai mất nước là vì Tây Thi. Vì vậy, La Ôn minh oan
cho Tây Thi bằng mấy câu thơ:
“Nước
mất nhà tan bởi cơ trời
Sao
cứ Tây Thi đổ tội hoài
Tây
Tử nếu làm Ngô mất nước
Thì
xưa Việt mất bởi tay ai?
5)- Khúc
Ca Tần Hoài
(Ai
luyến, ai tiếc Khúc Ca Tần Hoài -
Dương
Thiệu Tước - Đêm Tàn Bến Ngự).
Trần Hậu Chủ tên thật là Trần Thúc Bảo (553-604), nhà Hậu Trần thời Nam -
Bắc triều bên Tàu.
Ông nổi
tiếng là người tài tử phong lưu, ưa đàn hát vui chơi, trong cung lúc nào cũng
có hàng ngàn mỹ nữ giai nhân, nổi tiếng nhất là Khổng Quí Tần và Trương Lệ Hoa,
hai người rất được nhà vua sủng ái.
Vua cho
xây điện Quang Chiếu, toàn bằng gỗ trầm hương để cùng các tài tử giai nhân
xướng họa thơ phú, vui ca đàn hát.
Những bài
thơ khúc hát soạn ra được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân
nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa (Hoa ở sân sau). Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những
bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Những cuộc vui nầy làm cho nhà Trần suy vi.
Trần Hậu Chủ cũng soạn một khúc hát Hậu Đình Hoa:
Nguyên tác là:
Lệ vũ phương lâm đối cao các
Trân trang điểm chất bản khuynh thành,
Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,
Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh.
Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu Đình.
Nghĩa:
Bóng rợp hương thơm chốn lâu các,
Nghiêng thành vẻ đẹp với màu
tươi.
Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước
Trước màn chào đón mỉm môi cười,
Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
Cây ngọc sân sau chiếu sáng
ngời
Vua Văn Đế nhà Tùy thừa dịp nhà Hậu
Trần nầy, sai
đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đương say rượu, chưa tỉnh.
Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước
mất nhà tan cũng do khúc hát “Hậu Đình Hoa” ấy,
Đỗ Mục, nhân một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài,
gần một quán rượu. Đêm đã khuya mà bấy giờ trong quán, khách còn say sưa ăn
uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để mua vui cho khách.
Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia sông, Đỗ Mục làm bài thơ, thường gọi là
Tần Hoài Dạ Bạc.
Nguyên văn:
Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,
Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng "Hậu Đình Hoa"
Khói bay, nước lạnh, khói trăng pha,
Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu gia.
Hận nước gái buôn không biết rõ,
Cách sông còn hát “Hậu
Đình Hoa”.
Trong “Cung Oán Ngâm Khúc” của Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:
Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.
Trong
bài hát “Đêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước có câu...
Thuyền mơ
trong khúc Nam Ai,
Đàn khuya trên sông ngân dài.
Ai luyến, ai tiếc khúc ca Tần Hoài!
Khúc ca
Tần Hoài chính
là khúc Tần Hoài Dạ Bạc nói ở trên.
Sông
Hoài, còn gọi là Hoài Hà, Hoài Thủy, lớn thứ ba sau Dương Tử và Hoàng Hà, không
chảy ra biển mà đổ nước vào sông Dương Tử. Sông chảy qua Tần Hoài là một quận
của Nam Kinh.
6)- Điêu
Thuyền
“Bọn ta
đều chết cả về tay người đàn bà này”
(Lý Nho,
mưu sĩ Đổng Trác)
Đổng
Trác lộng quyền. Vương Doãn muốn trừ bèn lập mưu với Điêu Thuyền là con gái
nuôi, hát hay, đàn giỏi, sắc đẹp khiến trăng phải xấu hổ mà dấu mình đi (“bế
nguyệt”), Cung Oán Ngâm Khúc gọi là “Hương trời đắm nguyệt say hoa). Điêu
Thuyền là một trong “tứ đại mỹ nhân”.
Vương
Doãn gả Điêu Thuyền cho Đổng Trác, nhưng xúi Điêu Thuyền ngoại tình với Lã Bố,
con nuôi Đổng Trác. Thế rồi hai cha con Đổng Trác - Lữ Bố giết nhau.
Đổng Trác
bị giết rồi, dân chúng thoát khỏi ách cai trị tàn ác.
Đổng Trác mê say tiếng đàn, giọng hát, ánh mắt của Điêu Thuyền được mô tả
như sau:
Nhất điểm anh đào khải giáng thần.
Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân.
Đinh hương thiệt thổ hành cương kiếm.
Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!
dịch:
Một đóa anh đào chúm chím môi,
Đôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi kiếm:
Chém chết gian thần có lúc thôi!
Bài hát
ca ngợi vẻ đẹp Điêu Thuyền:
Phải người cung cũ Chiêu Dương?
Xiêm y mây cuốn vương vương cánh hồng
Gót hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ
Động đình lạc lối hoa bay,
Lương châu thoăn thoắt sen cài
bước chân
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!
Mao
Tôn Cương trong “Thánh Thán Ngoại Thư” bàn về Điêu Thuyền như sau:
“18 lộ
quân chư hầu không giết nỗi Đổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu
như Điêu Thuyền lại giết nỗi Trác.
Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không
thắng nỗi Lữ Bố, mà chỉ một nàng Điêu Thuyền thắng nỗi.
Ôi,
lấy chăn chiếu làm chiến trường,
lấy son phấn làm khôi giáp,
lấy mày ngài làm cung nỏ,
lấy nước mắt nũng nịu làm tên đạn,
lấy lời tình tứ ngọt ngào làm chiến lược
mưu cơ.
Xem thế thì cái bản lãnh của “nữ
tướng quân” quả
là tuyệt cao cường, đáng sợ thay!"
Chuyện
vặt:
- Tề
Tuyên Vương:
Vua Tuyên
Vương nước Tề trong khi nói chuyện trị nước (chính-trị) với thầy Mạnh-tử, có
nói câu “Quả-nhân hữu-tật, quả nhân hiếu sắc (kẻ quả-nhân (tụ xưng) này có tật,
kẻ quả-nhân này hiếu sắc). Đó chỉ là một câu nói ví-dụ ở trong việc chính-trị,
mà đây dùng lối “đoạn chương thủ nghĩa” (cắt câu lấy nghĩa) cho thêm lý thú
khôi hài. Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên, tức bệnh ưa sắc đẹp của một đấng
quân-vương.
Tài-sắc
đã vang-lừng trong nước,
Bướm-ong
càng xao-xác ngoài hiên,
Tai nghe
nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.
(Cung
Oán Ngâm Khúc- Ôn Như Hầu).
- Thành
Thái
Vua Đồng
Khánh mất, ông Bửu Lân lên nối ngôi, hiệu là Thành Thái. Vua thành Thái là
người tiến bộ, chọn Tây học, và cũng âm mưu chống Pháp, giành độc lập.
Để chuẩn
bị công việc nầy, nhà vua thành lập một đội nữ binh (lập nam binh sợ Tây lưu
ý). Ông thường đi vi thiềng tìm người, giả bộ nói là đi tìm người ông yêu. Do
đó, trong dân chúng Huế có câu ca dao, có người nói là do nhà vua đặt ra:
Kim
Luông có gái mỹ miều
Trẫm
thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi.
Kim
Luông, là nói trại tên làng Kim Long, phía tây ngoại thành Huế, làng trù phú,
có nhiều nhà quan, cũng là nơi có họ đạo của ông giám mục Gaspar là “tên thực
dân mặc áo chùng đen làm gián điệp dọ thám nội tình nước ta” như cách thường
gọi của người Huế.
Dù vậy,
việc làm của vua Thành Thái cuối cùng cũng bị bại lộ.
Người ta
nói chính Trương Như Cương, quan to trong triều, biết việc nầy, liền
báo cho Tây biết, để lật đổ vua Thành Thái mà đưa con rể của ông là Bửu Đáo,
lên làm vua, tức là Khải Định.
Cũng có
người nói con gái Nguyễn Thân, cung phi, cũng ở trong đội nữ binh, bị thương
khi tập đánh gươm. Nguyễn Thân vào thăm con, biết việc bèn báo cho Tây để lập
công. (Theo sử, Nguyễn Thân là đại Việt gian. Theo ông Nguyễn Đức Cung, Nguyễn
Thân là nhà ái quốc!)
Tây không
đủ lý do truất phế ông về việc chống Tây bèn ngụy tạo lý do, bảo rằng ông bị
bệnh điên, hoang dâm, không làm vua được.
Tây nói
đúng hay dư luận dân chúng Huế đúng?
- Ngô Tam
Quế
Ngô Tam
Quế làm tướng nhà Minh, được giao nhiệm vụ trấn giữ Sơn Hải Quan là biên giới
giữa lãnh thổ nhà Minh và Mãn Châu. Bấy giờ thế lực nhà Thanh ở Mãn Châu mạnh
lắm, muốn cướp Trung Nguyên nhưng không vượt được Sơn Hải Quan.
Bấy giờ ở
kinh thành có loạn, Lý Tự Thành đã diệt được nhà Minh, dự tính sẽ lên làm vua,
cho người liên minh với Ngô Tam Quế. Tam Quế có một người thiếp yêu ở kinh đô,
bị một tướng của Lý Tự Thành cướp mất. Vì vậy, Ngô Tam Quế tức giận, bỏ Sơn Hải
Quan, liên hợp cùng quân Thanh kéo về kinh đô để trừng trị kẻ đã cướp người
thiếp của y. Nhờ đó, nhà Thanh lên ngôi ở Bắc kinh, cai trị Trung Nguyên 300
năm. Người Tàu không ngo ngoe gì được, phải chờ đến cuộc
cách mạng Tân Hợi để “nồi da xáo thịt” cho tới khi họ Tưởng thua chạy ra Đài
Loan. (xem phụ lục trích từ “Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê).
Dĩ
nhiên, người được mê phải là người đẹp, còn như nói yêu người xấu, không hẵn là
không có, nhưng có thể coi như đó là ngoại lệ, ít khi.
Dã
sử còn nhắc chuyện vua nhà Lý gặp Ỷ Lan thứ phi. Bà xấu đẹp không biết nhưng
mặt lại rỗ. Khi bị bắt tới “trình diện” vua Lý, thấy mặt nàng, vua bảo sẽ ra
một câu đối, nếu đối được thì vua tha tội “khi quân” vì không chịu quì xuống,
đứng dựa (ỷ) vào cây “lan” khi kiệu vua đi qua. Câu vua ra là:
Rỗ
chằng, rỗ chịt, rỗ chín mười mươi.
Cô gái
đối là:
Yên
nước, yên dân, yên luôn bốn bể.
Mê? Người đàn ông mê gái,
mê vợ bé, ít ai mê vợ cả. Vì vậy mới có câu ca dao:
“Gió
đưa bụi chuối, sau hè,
Anh
theo vợ bé bỏ bè con thơ”
Câu
thơ đầu thuộc thể hứng. Người vợ đêm nằm nghe tiếng lá chuối xào xạc sau hè,
khó ngủ nên nhớ tới người chồng bạc bẽo.
Thôi!
xin bà ngủ đi bà vợ cả. Sở dĩ bà bị chồng phụ là vì bà lớn tuổi rồi, bà già
rồi, bà là “gái xề” năm, ba mặt con rồi, bà chỉ còn là:
Chàng
ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp
là cơm nguội để khi đói lòng.
Chỉ là “cơm nguội” thôi!!!
Tứ đại mỹ
nhân và hầu như gần hết người đẹp nước Tàu, nước ta, nước Nhựt... có mấy ai
được “trường thọ”.Người thương cũng nhiều mà người ghét cũng không ít. Thậm
chí, nhiều khi cây cỏ cũng ghen.
Trong
“Tần Cung Nữ Oán Bái Công Văn” có câu:
“Cặp
mày xanh chiếc lá cũng ghen,
Câu
khiển hứng đánh chìm dòng nước chảy”
Chiếc
lá ghen với đôi mày đẹp, nên khi cung nữ viết vào lá vài câu thơ, thả xuống
giòng suối trong cung, nhờ lá trôi ra ngoài cung cấm, để lời tâm sự của cung nữ
được ai đó ở ngoài kia nhặt lá lên xem mà biết tới. Nhưng lá vì ghen sắc đẹp
với cung nữ, không trôi đi mà chìm xuống đáy nước.
Trong
truyện Kiều, Nguyễn Du nói rõ hơn: “Hoa ghen sắc thám, liễu hờn kém xanh”.
Cô
Kiều không chết sớm, nhưng cô phải chịu 15 năm lưu lạc chốn phong trần.
Xưa
thì cho người tài giỏi và người đẹp đều mệnh yểu như nhau:
“Giai
nhân tự cổ như danh tướng
Bất
hứa nhân gian kiến bạch đầu”.
(Danh
tướng cũng như giai nhân, không hứa ở với đời đến khi đầu bạc).
Ngay
thế kỷ 20, nhà thơ Jan Leiba cũng đồng ý như như vậy:
“Người
đẹp thường hay chết yểu
Thi
nhân đầu bạc sớm hơn ai!”
Hàn
Mặc Tử,Bích Khê, Quách Thoại qua đời khi chưa quá tuổi ba mươi!
Xưa
gọi là “tài mệnh tương đố”. Ngày nay, tôi không tin như vậy. Tin vào số mệnh,
chỉ là điều an ủi...
Hoàng Long Hải
Trích một đoạn trong sách Sử Trung Quốc của
học giả Nguyễn Hiến Lê:
Ngô Tam Quế được lịnh về cứu kinh đô từ mười
ngày trước, vẫn trùng trình,
tiến binh rất chậm, có lẽ vì còn tính xem có nên nhận đề nghị chia chác sau đó
của Lý Tự Thành không. Khi Tự Tôn (tức Sùng Trinh Hoàng đế) tuẫn
quốc, thì Quế mới tiến được có nửa đường tới Bắc Kinh. Hay tin, hắn quay trở về
liền để chờ xem tình thế ra sao.
Lý Tự Thành đã thành công một cách dễ
dàng...Duy có Ngô Tam Quế là có thể gây rối cho ông. Ông nhờ cha của Quế (lúc
đó đã theo ông) làm trung gian để điều đình với Quế. Nhưng Quế vẫn không quyết
định gì cả, có lẽ muốn đợi Lý Tự Thành trả cho mình một ái thiếp bị một tướng
của Tự Thành bắt. Đồng thời Quế cũng thương thuyết với quân Thanh, nhờ quân
Thanh giúp khi cần. Tự Thành hay tin đó tặng Quế 40.000 lạng (vàng), Quế
vẫn làm thinh.
Bực mình, Tự Thành phái hai tướng đem 20.000
quân tấn công Quế. Nhưng đáng lẽ phải cấp tốc đánh Ngô Tam
Quế trước khi quân Thanh can thiệp, thì họ lại kéo dài ra. Lý Tự
Thành phải đích thân đem 200.000 quân đánh Quế ở gần Sơn Hải Quan, khi vây Quế
ba mặt rồi, quân Quế sắp bị tiêu diệt thì quân Thanh tới cứu Quế. Tự Thành thua,
rút lui, đề nghị chia giang sơn với Quế; Quế không chịu, Tự Thành giết cha Quế
rồi vội vàng về Bắc Kinh (vì quân địch theo bén gót) vơ vét vàng bạc, châu báu
chất lên xe, đưa về phía Tây, đốt cung điện rồi cùng với quân đội rút lui...
Quế hy vọng đuổi được Tự Thành rồi, nhường
cho nhà Thanh một số quyền lợi nào đó thì họ sẽ lui về Mãn Châu. Không dè viên
phụ chính (Đa Nhĩ Cổn), chú vua Thanh bảo chưa lập được trật tự nên không về,
lại sai Quế đem quân Thanh đuổi theo Lý Tự Thành tới Thiểm Tây. Trong khi đó,
vua Thanh mới 7 tuổi (Khang Hy) được chú (tức viên phụ chính) đưa vào Bắc
Kinh, đặt lên ngai vàng.
Quế hay tin như người mất hồn, suốt ngày đóng
cửa không tiếp ai, rất rầu rĩ. Hắn tiếc vì mất ái thiếp, lại mất ngôi vua hay
chức Tể tướng. Hắn
ân hận vì để cho cha bị giết và mang tội phản quốc.
Khóc Vũ
Hân
(Vũ Hân,
quê Quảng Nam, bị tật bẩm sinh, là một nhà thơ, - tác giả thi phẩm “Diễm Trang”,
nhà giáo nổi tiếng ở trường Bồ Đề Huế. Sau 1975, ông bị buộc phải thôi dạy học,
sống lây lất ở Saigon, vợ bỏ lấy cán ngố nón cối y như nhà thơ đỏ chống cộng
cuội NMH đang nổi cộm trên các diễn đàn mạng toàn cầu ngót 15 năm nay v.v…
Ông Vũ
Hân chết trong cảnh nghèo khó. Bài thơ nầy Hoàng Vũ khóc Vũ Hân khi nghe tin
ông Vũ Hân qua đời).
Ức
Vũ quân hề lệ mãn khâm
Trường
Sơn Quảng địa nhất tinh trầm
Yên
hoa phong bút, hồn như tại
Hà
huống tao nhân ảo tỵ trần
bản
Nôm:
Thấm
bâu lệ nhớ bao lần
Quê
hương bỗng xót một vì sao rơi
Bút
hoa gởi lại với đời
Đành sao anh vội về nơi
chia đường.
Nhất
phiến tài tình vạn cổ thương
Nhàn văn
độc khứ thệ hà phương
Ô hô! Thế
sự mai trường mộng
Hốt kiến
trần khôi sở đoạn trường
bản
Nôm:
Tài
hoa một kiếp thân thương
Cánh
mây biền biệt cuối đường phiêu du
Mộng
trường chôn chặt ngàn thu
Màu
tro xám lạnh bùi ngùi tâm can
Hoàng Vũ
Truyền Thuyết 1:
Tương truyền Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân
tại làng Chử Xá
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chẳng
may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mặc. Lúc người cha
lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương
cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần
truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngày dầm nửa người dưới
nước, đến gần thuyền bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy vua Hùng Vương thứ
ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao
du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm
vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp
nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ,
Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng
ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử trần truồng dưới
cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên
duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên
Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập,
phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung-Chử Đồng Tử làm chúa. Một hôm có
người bày cho cách ra ngoài buôn bán nhiều lãi, Tiên Dung khuyên chồng
nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn
núi giữa biển tên Quỳnh Tiên. Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ
tên Phật Quang. Chử Đồng Tử bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình
thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Phật Quang tặng Chử
Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Về nhà, Chử Đồng Tử truyền mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung
giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối
trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp
nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng
điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh
vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đó chỗ ấy phồn
thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa
cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ (Đầm Một Đêm), bãi cát đó
là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là
chợ Hà Thị
Truyền
thuyết 2:
Trọng
Thủy, Mỵ Châu
Thục Phán
An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây mãi không xong, vì có yêu quái (đặc công
Việt Cộng) phá hoại. Nhà vua bèn lập đàn cầu. Thần Kim Quy hiện ra, dẹp yêu
quái nón cối và chỉ cho nhà vua cách xây thành. Xây xong thành, thần Kim Quy
còn tặng nhà vua một cái móng rùa để làm lẫy nỏ thần, bắn một phát ra hàng vạn
mũi tên.
Nhờ nỏ
thần, mấy lần Triệu Đà đem quân sang đánh đều bị đại bại. Triệu Đà bèn xin giao
hòa rồi sai con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với con gái vua An Dương Vương
là Mỵ Châu. Thâm ý của Triệu Đà là dùng con trai làm gián điệp do thám.
Vô tình,
An Dương Vương thuận nghị hòa và nhận lời cầu hôn của Trọng Thủy.
Trọng
Thủy lập mưu dò hỏi, Mỵ Châu kể lại cho chồng nghe chuyện chiếc nỏ thần.
Trọng
Thủy nói với vợ muốn xem nỏ cho biết sự linh nghiệm. Nghe lời chồng, Mỵ Châu
lén lấy nỏ thần đưa cho chồng xem. Trong Thủy bèn thừa cơ thay cái lẫy nỏ bằng
một cái giả, rồi giả vờ nói với vợ là nhớ nhà, xin phép về thăm cha mẹ.
Trước khi
chia tay, Trọng Thuỷ hỏi vợ:
- “Trong
lúc xa nhau, lỡ có giặc thì làm sao tìm nhau?”
Mỵ Châu
nói:
- “Thiếp
có chiếc áo lông ngỗng, khi chạy giặc, thiếp
sẽ rải
lông ngỗng dọc đường, chàng cứ theo dấu mà tìm thiếp.”
Triệu Đà
được cái lẫy nỏ, bèn đem quân đánh Thục Phán. An Dương Vương tin vào nỏ thần,
không phòng bị gì cả. Khi giặc đến chân thành, bèn lấy nỏ thần ra bắn, thấy nỏ
không còn hiệu nghiệm, bèn đem Mỵ Châu lên ngựa, cùng chạy trốn. Chạy mãi vẫn
thấy quân giặc đuổi theo sau.
Đến núi
Mô Dạ thì cùng đường, vua bèn khấn cầu thần Kim Qui giúp đỡ. Thần hiện lên nói:
- “Giặc
ngồi sau lưng bệ hạ đó!”
(Giặc
ngồi ở đàng sau, bệ hạ đừng mong khôi phục cơ đồ).
Bấy giờ
nhà vua mới hiểu ra, bèn rút gươm chém chết Mỵ Châu rồi nhảy xuống biển tự vẫn.
Thục Phán
chết rồi, hóa thành con chim quốc, cứ đêm nhớ nước mà gọi “quốc, quốc” kêu đến
sáng thỉ vỡ họng mà chết. Nguyễn Khuyến có bài thơ, ông làm ra khi nước ta bị
Pháp mới đặt nền đô hộ:
Quốc
kêu cảm hứng
Khắc
khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn
Thục Đế thác bao giờ
Năm canh
máu chảy đêm hè váng
Sáu khắc
hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải
tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là
nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm
ròng rã kêu ai đó,
Giục
khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
Bài thơ
“Qua Đèo Ngang” cũng có mấy câu, nhưng chữ nước của bà Huyện là ám chỉ “Lê
Triều”.Trong văn học, các nhà phê bình phân loại bà thuôc nhóm “Hoài niệm Lê
Triều”.
Qua
đèo Ngang
Bước tới
đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây
chen đá, lá chen hoa
Lom khom
dưới núi tiều vài chú
Lác đác
bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc! (X)
Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia!
Dừng chân
ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh
tình riêng ta với ta
(X)
Chim Quốc, (người Bắc thường gọi là chim Cuốc – “Ai xui con cuốc gọi vào hè” -
Nguyễn Khuyến) và cũng là chim đa đa. Chữ đa cũng đọc thành da (cây đa, cây
da), chữ da người Bắc viết là gia, nên câu thơ trên quốc đối với gia. Chữ gia,
chữ Nôm viết là da (đại khái như giòng sông và dòng sông).
Sau
khi tìm được vợ, Trọng Thủy đau đớn quá, trở về Loa Thành, nhảy xuống cái giếng
trong đó mà chết.
Chuyện
xưa cũng kể rằng, khi bị chém chết, máu của Mỵ Châu chảy xuống biển, những con
trai ở biển Mộ Dạ (bên núi Mộ Dạ) ăn những máu ấy. Lấy hột trai của những con
trai nầy, đem rửa với nước giếng trong Loa Thành, nơi Trong Thủy tự tử, ngọc ấy
sẽ sáng lên rất đẹp!
Bệnh
Giang Mai:
Anh em
trai chúng tôi có 4 người, khi đến tuổi thành niên, mẹ tôi thường răn dạy, ngăn
ngừa trong việc quan hệ nam nữ, sợ chúng tôi mắc bệnh phong tình, kỵ nhứt là
bệnh giang mai, gây họa đến mấy đời. Theo mẹ tôi nói, hiện tượng trẻ bị sứt môi
là một thí dụ, do vi trùng giang mai gây ra. Vi trùng nầy tiềm ẩn nhiều thế hệ.
Bệnh giang mai do sự kiện Dương Quí Phi bị hiếp dâm sau khi đã chết mà gây ra.
Dù đã chết, nhưng Dương Quí Phi đẹp quá, làm cho binh lính nhà vua cũng động
tình, mượn cớ trả thù, làm bậy trên xác tử thi trong lúc giặc giả hoảng loạn.
Cũng do việc nầy, bệnh giang mai là tên đọc trại của Dương Mai, phát xuất từ tên
thuở nhỏ Dương Quí Phi.
Ngày
nay, có lẽ y học chưa xác nhận sự kiện lịch sử nầy, nhưng có lẽ mẹ tôi cũng học
được khi làm ở bệnh viện Quảng Trị, khi còn trẻ mẹ tôi làm việc ở đấy?
Việc
nầy đúng không?
Hoàng Long Hải
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!