Thứ Năm, 13 tháng 4, 2023

THƠ VÀ SỬ VIỆT -NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ CAO BÁ QUÁT (P. I) - Bs. Phan Thượng Hải biên soạn



THƠ VÀ SỬ VIỆT - NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ CAO BÁ QUÁT

Bs. Phan Thượng Hải biên soạn

Nhà Nguyễn có 2 Thi sĩ và Nho sĩ tiêu biểu vào đầu thế kỷ thứ 19 là ông Nguyễn Công Trứ và ông Cao Bá Quát. Hai ông đã góp phần đặc sắc cho Thơ và Sử của nước ta.

Nguyễn Công Trứ

*

Làm Quan

Ông Nguyễn Công Trứ (1778-1858) làm quan từ năm 1820 đến năm 1847 dưới 2 triều vua Minh Mạng (1820-1840) và Thiệu Trị (1840-1847).

Ông đậu Giải Nguyên ở Nghệ An (1819) lúc 41 tuổi.

Đường hoạn lộ rất thăng trầm có lúc làm tới Tổng Đốc (Hải An Tổng Đốc gồm 2 tỉnh Hải Dương và Kiến An tức là Hải Phòng bây giờ) và Thượng Thư (Binh Bộ Thượng Thư) nhưng có lúc làm lính thú ở Quảng Ngãi (1844).

Khi làm Tuần phủ An Giang, ông Nguyễn Công Trứ bị Nguyễn Công Nhàn vu cáo chở thuyền gian buôn bán lậu nên bị cách chức làm lính thú ở Quảng Ngãi.

Chức cuối cùng là Phủ Doãn Thừa Thiên rồi ông về hưu (1847), lúc đó 70 tuổi.

Có nhiều cuộc nội loạn thời Minh Mạng và Thiệu Trị: giặc Phan Bá Vành, giặc Lê Duy Lương, giặc Nông Văn Vân, giặc Khách ở Bắc Kỳ; giặc Lê Văn Khôi và 2 lần chiến tranh với Xiêm La ở Nam Kỳ. Tuy là khoa bảng văn nhân, ông Nguyễn Công Trứ cầm quân dẹp giặc Phan Bá Vành(1827), giặc Nông Văn Vân (1833) và giặc Khách (1835) ở Bắc Kỳ; và cầm quân trong chiến tranh Việt Xiêm (1841-1845). Ngoài ra ông Nguyễn Công Trứ còn dẹp giặc người Miên ở Trà Vinh.

Ông Nguyễn Công Trứ còn giỏi về kinh tế. Ông đắp đê lấn biển lập ấp và chiêu mộ dân nghèo về ở lập thành 2 huyện Kim Sơn (ở Ninh Bình) và Tiền Hải (ở Thái Bình).

Cuộc đời làm quan của ông Nguyễn Công Trứ là thể hiện của tình trạng quan trường và tình hình chính trị quân sự của Việt Nam dưới thời 2 vua Minh Mạng và Thiệu Trị (1820-1847).

Khi Pháp tấn công Đà Nẳng (1858), ông Nguyễn Công Trứ đã về hưu vẫn xin đi tòng quân đánh giặc (và dĩ nhiên bị vua Tự Đức từ chối). Lúc đó ông được 80 tuổi và chết cùng năm đó.

Sau nầy, vua Tự Đức có câu đối tặng ông Nguyễn Công Trứ:

Tả hữu nghi văn nghi võ

Tử sinh danh tướng danh thần

*

Kẻ Sĩ

Nhân sinh quan của ông Nguyễn Công Trứ là điển hình lý tưởng “Kẻ Sĩ” của Nho Giáo với 3 giai đoạn: (1) trước khi, (2) trong khi và (3) sau khi làm quan.

KẺ SĨ


Nhập Đề:

Tước hữu ngũ Sĩ cư kỳ liệt

Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên

Có giang sơn thì Sĩ đã có tên

Từ Chu Hán vốn Sĩ nầy là quý


Thân Bài:

- Trước khi ra làm quan (Lúc Vị Ngộ):

Miền hương đẳng vẫn khen rằng hiếu nghị

Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường

Khí hạo nhiên chí đại chí cương

So chính khí đã đầy trong trời đất

Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất

Hiu hiu nhiên điếu Vị canh Sằn (*)

Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn (*)

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị

Cầm chính đạo để tịch tà cự bí

Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên


- Trong khi ra làm quan (Hội rồng mây):

Rồng mây khi gặp hội ưa duyên

Đem quách cả sở tồn làm sở dụng

Trong lang miếu ra tài lương đống

Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương (*)

Làm sao cho bách thế lưu phương

Trước là Sĩ sau là khanh tướng

Kinh luân khởi tâm thượng

Binh giáp tàng hung trung

Vũ trụ chi gian giai phận sự

Nam nhi náo thử thị hào hùng


- Sau khi làm quan (Thú nhàn dật):

Nhà nước yên thì sĩ được thong dong

Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch (*)

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch

Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn

Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn

Đồ thích chí chứa đầy trong một túi

Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới

Ngẫm sự đời mà ngắm kẻ trọc thanh


Kết Luận:

Nầy nầy Sĩ mới hoàn danh.

Chú thích:

Khương Tử Nha (Lã Vọng) câu cá ở sông Vị Hà. Nghiêm Tử Lăng cày ruộng ở đất Sằn.

Vua Thành Thang và vua Chu Văn Vương rước người hiền bằng xe có bánh “bện cỏ bồ” (đi cho êm). Vua Thành Thang rước ông Y Doãn, vua Chu Văn Vương rước Khương Tử Nha. Nghiêm Tử Lăng từ chối không ra làm quan với vua Hán Quang Vũ Đế nhưng là thầy của vua (cho ý kiến mà thôi).

Can Tương và Mạc Tà là 2 thanh kiếm bén nhứt thời Xuân Thu.

Hoàng Thạch Công là ông Tiên dẫn Trương Lương đi tu sau khi giúp Hán Lưu Bang thắng Hạng Vũ.

Tuy nhiên thực tế thì không phải vậy. Sự khác biệt với lý tưởng Nho Giáo (của bài Kẻ Sĩ) cho thấy từ 4 bài thơ liên hoàn tự vịnh của Nguyễn Công Trứ, tả lại cuộc đời thực sự của mình (nếu so sánh với bài Kẻ Sĩ).

- Lúc vị ngộ chưa ra làm quan:

(Lúc vị ngộ)

Miền hương đẳng vẫn khen rằng hiếu nghị

Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường

Khí hạo nhiên chí đại chí cương


So chính khí đã đầy trong trời đất

Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất

Hiu hiu nhiên điếu Vị canh Sằn

Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn

Phù thế giáo một vài câu thanh nghị

Cầm chính đạo để tịch tà cự bí

Từ lý tưởng khi vị ngộ của kẻ Sĩ như cuộc đời của Khương Tử Nha và Nghiêm Tử Lăng được mô tả trong đoạn thơ trên (của bài thơ Kẻ Sĩ); cuộc đời thật sự của Nguyễn Công Trứ khi vị ngộ được ông tả trong bài 1 của bài Liên Hoàn Tự Vịnh; của ông:

QUÂN TỬ CỐ CÙNG

Chưa chán ru mà quấy mãi đây

Nợ nần dan díu mấy năm nay

Mang danh tài sắc cho nên nợ

Quen thói phong lưu hóa phải vay

Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt

Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay

Còn trời còn đất còn non nước

Có lẽ ta đâu mãi thế nầy.


- Lúc ra làm quan:

(Hội rồng mây)

Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên

Rồng mây khi gặp hội ưa duyên

Đem quách cả sở tồn làm sở dụng

Trong lang miếu ra tài lương đống

Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương

Làm sao cho bách thế lưu phương

Trước là Sĩ sau là khanh tướng

Kinh luân khởi tâm thượng

Binh giáp tàng hung trung

Vũ trụ chi gian giai phận sự

Nam nhi náo thử thị hào hùng

Từ lý tưởng làm Khanh Tướng của Kẻ Sĩ được mô tả trong đoạn thơ trên (của bài thơ Kẻ Sĩ;), cuộc đời làm quan thật sự của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua bài 2 của bài Liên Hoàn Tự Vịnh:

HỘI GIÓ MÂY

Có lẽ ta đâu mãi thế nầy

Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy

Đã từng tắm gội ơn mưa móc

Cũng phải xênh xang hội gió mây

Hãy quyết phen nầy xem thử đã

Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay

Xưa nay xuất xử thường hai lối

Mãi thế rồi ta sẽ tính đây


- Lúc từ quan về hưu

(Thú nhàn dật)

Nhà nước yên thì sĩ được thong dong

Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch

Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn

Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn

Đồ thích chí chứa đầy trong một túi

Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi tới

Ngẫm sự đời mà ngắm kẻ trọc thanh

Nầy nầy Sĩ mới hoàn danh.


Từ cuộc đời lý tưởng của Kẻ Sĩ sau khi hết làm quan được mô tả trong đoạn thơ trên (của bài thơ Kẻ Sĩ), cuộc đời thật sự của Nguyễn Công Trứ sau khi hồi hưu được thấy trong bài 3 và 4 của bài Liên Hoàn Tự Vịnh:

THÚ ĐIỀN VIÊN

Mãi thế rồi ta sẽ tính đây

Điền viên thú nọ vẫn xưa nay

Giang hồ bạn lữ câu tan hợp

Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say

Tòa đá Khương Công đôi khóm trúc

Áo xuân Nghiêm Tử một vai gầy

Thái bình vũ trụ càng thong thả

Chẳng lợi danh gì lại hóa hay.


THÚ ẨN DẬT

Chẳng lợi danh gì lại hóa hay

Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy

Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp

Trong thú yên hà mặt tỉnh say

Liếc mắt coi chơi người lớn bé

Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay

Của trời trăng gió kho vô tận

Cầm hạc tiêu dao đất nước nầy.

Như vậy bài thơ Kẻ Sĩ không tả trung thực cuộc đời của Nguyễn Công Trứ mà chỉ là mộng tưởng của một Nho gia?

Tương truyền rằng ngày ông về hưu (hết làm Phủ Doãn Thừa Thiên), ông Nguyễn Công Trứ cỡi chiếc xe bò tay cầm ve vẫy một tấm mo trên có viết bài thơ dưới đây chạy trước cửa các nhà quan đại thần ở kinh đô:

Xuống ngựa lên xe lọ tưởng nhàn

Lợm mùi giáng chức với thăng quan

Điền viên dạo chiếc xe bò cái

Sẵn tấm mo che miệng thế gian.

(Nguyễn Công Trứ)

*

Thi Sĩ

Ông Nguyễn Công Trứ là một trong những thi sĩ kỳ tài nhất của thi văn Việt Nam. Ngoài thơ Hát Nói, ông làm đủ thể thơ Đường Luật và đôi khi dùng thể Lục Bát.

- Thể thơ “Yết Hậu”:

ĐÁNH TỔ TÔM

Tổ tôm tên chữ gọi hà sào (*)

Đánh thì không thấp cũng không cao

Được thì thu cả, thua thì chạy

Nào!

(Nguyễn Công Trứ)

(*) Chú thích: Hà sào = ông tổ của con tôm


- Thể thơ chơi chữ (giống như bài thơ Rắn của ông Lê Quý Đôn):


KHẤT NỢ THUA TỔ TÔM

Thân bác văn tôi đã xác vờ (*)

Trong nhà còn biết bán chi giờ?

Của trời cũng muốn không thang bắc

Lộc thánh còn mong lục sách chờ

Thiên tử nhất văn rồi chẳng thiếu (*)

Nhân sinh tam vạn hãy còn thừa

Đã không nhất sách kêu chi nữa (*)

Ông lão tha cho cũng được nhờ.

(Nguyễn Công Trứ)

(*) Chú thích:

Bác văn: ý nói “học trò”. “Thân bác văn” là “thân học trò”.

Từ câu: “Nhất văn Thiên Tử chiếu. Tứ hải Trạng Nguyên tâm”. (Một văn chiếu vua ban ra. Bốn biển đều có ý đậu Trạng Nguyên)

Nhất sách = kế sách.


Thật ra trong bài thơ trên, mỗi câu có tên 1 con bài tổ tôm: bác văn, bán chi, không thang, lục sách, nhất văn, tam vạn, nhất sách và ông lão.


KHẤT NỢ THUA TỔ TÔM

Thân bác văn tôi đã xác vờ

Trong nhà còn biết bán chi giờ?

Của trời cũng muốn không thang bắc

Lộc thánh còn mong lục sách chờ

Thiên tử nhất văn rồi chẳng thiếu

Nhân sinh tam vạn hãy còn thừa

Đã không nhất sách kêu chi nữa

Ông lão tha cho cũng được nhờ.

(Nguyễn Công Trứ)


- Thơ Họa

Ông Nguyễn Công Trứ có một bạn trẻ là ông Nguyễn Quý Tân (1814-1858), một người đậu Tiến Sĩ ra làm quan nhưng không thích.

Đây là những bài xướng họa giữa 2 ông:


VÔ ĐỀ (Nguyên bản)                     VÔ ĐỀ (Họa)

Có nghề mà lại cậy chi nghề         Tám vạn nghìn tư thứ ngỗng nghề

Nghề thế ai ngờ lại hóa nghê Thứ nghề áo mũ thứ nghề nghê

Vạn sự bất như thân cũng hổ         Mày râu ngẫm lại lòng thêm hổ

Nhất văn vô hữu nợ còn Thư kiếm sao đành dạ bỏ

Công danh chỉ tổ khoe đồ Xanh đỏ rẻ cùi khoe tốt (*)

Cờ biển còn hơn của ướt sề         Phong lưu khỉ gió hót đầy sề

Bôn tẫu làm chi cho rách gấu Xin đừng giở thói văn chương nữa

Thà rằng ngồi đó vuốt râu . Bán chó sao ngoài lại thủ .

(Nguyễn Quý Tân)         (Nguyễn Công Trứ)

(*) Chú thích: theo Tục ngữ “Tốt mã dẻ cùi”.

Đây cũng là 2 bài thơ chơi chữ. Bài xướng cố tình kể 7 con thú (nghê, hổ, bê, mã, lợn sề, gấu và dê) bài họa kể thêm 2 con nữa (ngỗng và chó).

Khi ông Nguyễn Công Trứ được 70 tuổi:

THẤT THẬP TỰ THỌ BẢY MƯƠI TUỔI TỰ CHÚC THỌ

(Bản Hán Ngữ) (Dịch Bản Việt Ngữ)

Nhật đối nhi tào tự giải di Ngày cùng lũ trẻ cợt đùa chơi

Kim ngô bất tự cố ngô thì Quả thực ta nay khác trước rồi

Tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu Múa rối mấy hồi rằng giúp nước

Trực ký niên hoa giới cổ hy Sống lâu bảy chục cũng ơn trời

Lão thực bất kham trang diện mục Thật thà bao quản khoe mình đẹp

Anh hoa an dụng nhiễm tu tì Tóc bạc xin đành kém vẻ tươi

Tự tàm tiên liệt hào vô trạng Những thẹn bất tài không bác bổ

Quái sát Hồng sơn hữu thị phi. Non Hồng thôi mặc tiếng trên đời.

(Nguyễn Công Trứ) (Lê Thước dịch)


THẤT THẬP TỰ THỌ THẤT THẬP TỰ THỌ

(Bản Hán Ngữ) (Họa Bản Việt Ngữ)

Nhật đối nhi tào tự giải di Bảy mươi tuổi tác vẫn nhường di (ri)

Kim ngô bất tự cố ngô thì Mới biết xưa kia buổi thiếu thì

Tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu Rượu tỉnh thơ say hồn Lý Bạch

Trực ký niên hoa giới cổ hy Trúc cười hoa cợt thú Vương Hy

Lão thực bất kham trang diện mục Giang sơn nắm lại đôi tay khẩu

Anh hoa an dụng nhiễm tu tì Văn võ buông ra một ngón tì

Tự tàm tiên liệt hào vô trạng Cùng kiếp phù sinh nay dở sạch

Quái sát Hồng sơn hữu thị phi. Dẫu ai tiếng thị với lời phi.

(Nguyễn Công Trứ) (Nguyễn Quý Tân)

Lần đầu tiên và là lần cuối cùng có người dùng thơ Việt Ngữ để họa thơ Hán Ngữ như ông Nghè Nguyễn Quý Tân?

*

Ông Nguyễn Công Trứ (1778-1858) và ông Nguyễn Du (1765-1820) là 2 thi hào của triều Nguyễn ở cùng quê tại huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông Nguyễn Du ở xã Tiên Điền còn ông Nguyễn Công Trứ ở xã Uy Viễn (Tuy Viễn), ngày nay là xã Châu Giang.

Đây là vùng nổi danh với sông Lam Giang và núi Hồng Lĩnh. Sông Lam Giang là hạ lưu của sông Cả chảy qua huyện Nghi Xuân ở biên giới Nghệ An-Hà Tĩnh và ra biển ở cửa Hội. Núi Hồng Lĩnh ở giữa Tx Hồng Lĩnh và 3 huyện Nghi Xuân, Cam Lộc và Lộc Hà; 1 km nam Tp Vinh (Nghệ An) và 15 km bắc Tp Hà Tĩnh.

Bs. Phan Thượng Hải

Mời xem tiếp phần II: Cao Bá Quát.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét

*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!