PHẠM NGỌC LƯ,NGƯỜI VẪN GIỮ LỬA
CHO NỀN VĂN HỌC MIỀN NAM
(Chân dung Nhà văn -Đỗ Trường)
Từ độ “đất trời dị biệt, gió mây bất đồng“ thì nền văn học miền Nam bị khai tử. Và tròn bốn mươi năm, tưởng chừng nó cũng đã chìm vào lãng quên. Nhưng nhìn lại, dường như dòng văn học ấy vẫn nảy nở, âm thầm chảy trong lòng đất Việt. Có thể nói, ngay sau biến cố 1975 dòng chảy đó tự chẻ ra như những nhánh sông luân lạc… rồi tìm về, tụ lại đó đây. Tuy chưa thể cháy lên, nhưng nó đã cùng với những nhà thơ, nhà văn hải ngoại làm ấm lại phần nào cho nền văn học miền Nam.
Nếu được phép đi tìm những khuôn mặt cho văn học miền Nam còn ở lại trong nước, chắc chắn thi sĩ tôi nghĩ đến trước nhất phải là Phạm Ngọc Lư. Tuy viết không nhiều, nhưng cốt cách Con Người cũng như hồn vía văn thơ của ông trong một cái xã hội dối trá lọc lừa, không phải ai cũng giữ được.
Nhà thơ Phạm Ngọc Lư sinh năm 1946 tại một làng nhỏ vùng duyên hải thuộc huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên cách thành phố Huế khoảng 30 cây số về hướng Đông Nam, trong một gia đình thuần nông. Ngay từ thuở ấu thơ Phạm Ngọc Lư đã được cha và người bác truyền dạy chữ Hán. Ông là cựu học sinh Quốc Học, sinh viên Viện Hán học và Đại học Văn Khoa Huế. Sau khi tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn, ông về dạy học ở Tuy Hòa. Năm sau, 1968, ông bị (được?) động viên nhập ngũ khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Chỉ một thời gian ngắn tập luyện ở quân trường, ông lại được biệt phái trở về ngành giáo dục. Nhưng sau năm 1975, ông bỏ nghề. Từ đây, hoàn cảnh, xã hội đã đẩy Phạm Ngọc Lư phiêu bạt nhiều nơi, có những lúc cuộc sống, tâm hồn tuyệt vọng, tưởng chừng ông đã đoạn tuyệt với thi ca. Nhưng rồi chính nó lại là điểm tựa, giúp ông vượt qua những đắng cay, tủi nhục ấy. Và Đà Nẵng mới là nơi hội tụ, điểm dừng chân cuối, không chỉ riêng ông, mà còn của nhiều thi nhân lỡ bước khác.
Phạm Ngọc Lư xuất hiện trên thi đàn rất sớm. Từ năm 17 tuổi (1963) ông bắt đầu tập viết và vài ba năm sau đó đã có thơ và truyện đăng trên các báo, nguyệt san: Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Ý Thức, Tuổi Ngọc… Thơ Phạm Ngọc Lư mang đậm chất cổ thi và sử dụng nhiều điển tích cũng như từ ngữ Hán Việt. Do vậy, thơ ông cổ kính sang trọng, nhưng khi đọc lên tưởng chừng rất dễ vỡ.
Qủa thực, khi đọc, nghiên cứu Phạm Ngọc Lư, đôi khi ta bắt gặp một vài thủ pháp nghệ thuật sử dụng hình ảnh, câu từ khá tương đồng với cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Bởi, có lẽ hai thi sĩ đều có điểm chung, học chữ Hán và có nền tảng cổ văn khá vững, ngay từ thuở thiếu thời chăng? Tuy là vậy, nhưng tư tưởng, hồn vía trong thơ lại có những khúc rẽ rất khác nhau.
*Tiếng chuông chiêu hồn vọng lên trong thơ.
Sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước không có một ngày bình yên, do vậy Phạm Ngọc Lư thấm được nỗi đau và sự mất mát trong chiến tranh và nỗi thống khổ sau cuộc chiến. Là nhà giáo, không phải cầm súng nơi chiến trường, nhưng với ngòi bút của mình, người thi sĩ trẻ ấy đã bóc trần sự thật của chiến tranh. Có thể nói, Biên Cương Hành là một trong những bài thơ hay nhất viết về chiến tranh, không chỉ của thi ca miền Nam, mà cho cả nền thi ca đất Việt. Đa số những bài viết về đề tài chiến tranh, hay cổ động chiến tranh thường có giá trị nhất thời. Nhưng Biên Cương Hành lại có sức sống dẻo dai và sự lan tỏa mạnh mẽ, bởi ngoài sự thật tàn khốc của chiến tranh, nó còn chứa đựng giá trị nghệ thuật cao.
Bài thơ này, Phạm Ngọc Lư viết vào tháng 5-1972, theo thể Hành, như những tiếng chuông chiêu hồn vọng lên trong không gian (đã trở về) tĩnh lặng, giữa chiến trường sặc mùi tanh của đất chết. Với chỉ một câu khẩu ngữ so sánh cũ kỹ, bình thường: “Chiến trường ném binh như vãi đậu“ nhưng đã được thi sĩ đặt đúng vào vị trí, văn cảnh, nó trở thành câu mới, hình tượng so sánh ẩn dụ mới. Hình ảnh đó là sự tàn nhẫn, với nỗi đau tận cùng và thân phận rẻ mạt của người lính trong chiến tranh. Và đằng sau nó như một bản cáo trạng tội ác đối với những kẻ đã gây ra cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn của nhà thơ. Chúng ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ điều đó:
“… Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn…“ (Biên cương hành)
Viết về chiến tranh, có lẽ không có thể thơ nào chuyển tải và lột tả hết cái bi thương bằng thể thơ Hành. Thật vậy, như có lần tôi đã viết: Hành thuộc thơ cổ, có xuất xứ từ Trung Quốc, thường viết theo thể thất ngôn, ngũ ngôn, hoặc dài ngắn tùy thuộc tâm trạng, cảm xúc của tác giả. Nó là thể thơ khó nhằn, khó viết. Nhìn chung, các nhà thơ Việt rất ít sử dụng thể loại này.
Đã đọc khá nhiều thơ thể hành, nhưng quả thực, còn đọng lại trong tôi không nhiều. Bởi, tuy là thể thơ mang tính tự do, phóng khoáng, nhưng để đạt đến cái đỉnh bi tráng, thực sự lay động lòng người, không phải nhà thơ nào cũng làm được. Với tôi, kể từ khi có thơ mới đến nay: Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính, Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên, Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư và Đau Thương Hành gần đây của Thế Dũng là những bài thơ hay, mang lại cho tôi nhiều cảm xúc nhất, khi đọc thể loại này.
Phạm Ngọc Lư dường như đã bước ra khỏi cuộc chiến, để viết. Với cái nhìn bình tâm và khách quan như vậy, hình ảnh chiến tranh cũng như thân phận con người hiện lên một cách trung thực nhất. Và con đường cùng, tịt lối ấy: “Chưa hết thanh xuân đã cùng đường“ không chỉ dành riêng cho những người lính, hay những cô phụ mà là ngõ cụt cho cả một dân tộc:
“…Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá chi ta mà đợi
Sá chi hạt cát giữa sa trường
Sa trường anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta biết hẹn gì hơn?...“ (Biên cương hành)
Có thể nói, Phạm Ngọc Lư là một nhà thơ giầu trí tưởng tượng, có lối nhìn và sự quan sát tỉ mỉ. Chỉ với một vài hình tượng so sánh:“Tử khí bốc lên dày như sương/ Đá chảy mồ hôi rừng ứa máu“ ông đã dựng lại khung cảnh khác tang thương hơn, ngay sau trận chiến. Tuy không nghe tiếng súng tiếng bom, nhưng ta thấy mùi tử khí bốc lên ngùn ngụt. Nó phơi bày sự chém giết, hủy diệt một cách tàn nhẫn của con người với con người.
Nếu Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du làm cho ta phải rợn người khi đọc, thì Biên Cương Hành của Phạm Ngọc Lư sẽ làm ta phải sởn gai ốc, lạnh toát cả sống lưng. Thật vậy, đây là áng văn chiêu hồn hú lên, không chỉ cho những cô hồn đã chết, mà còn cho cả những cô hồn còn sống trong cũng như sau cuộc chiến này:
“…Quân len lỏi dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao xanh mặt hoảng hồn
Sát khí đằng đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi đã hoá thành thú muông
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng
Chém cây cho đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi mắt gái buôn hương…“ (Biên cương hành)
Gần đây có một nhà thơ già bảo tôi: Sau 43 năm, đọc lại Biên Cương Hành, vẫn cảm thấy mới và có những cảm xúc như lần đầu vậy.
Vâng! Đúng vậy, đó là một thi phẩm toàn bích của Phạm Ngọc Lư. Và tôi nghĩ, cùng với Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Hành Phương Nam của Nguyễn Bính…Biên Cương Hành của ông sẽ sống cùng thời gian.
*Thân phận trí thức sau chiến tranh.
Có lẽ, sau chiến tranh, sự bắt bớ cải tạo tù đày, đánh công thương, di dân kinh tế mới còn dã man, rùng rợn hơn cả bom rơi đạn nổ thời chiến. Nếu thời chiến, chiến trường chỉ xảy ra ở một khu, một vùng, thì thời bình (sau 30-4-1975), chiến trường mới thâm hiểm hơn, trải dài trên toàn tấm thân gầy đất Việt. Do vậy, bình an không thể tìm bất cứ nơi nào trên đất mẹ. Dòng người lao ra biển, người ở lại luẩn quẩn trong vòng tròn nghiệt ngã.
Cuộc sống bần cùng không lối thoát ấy, đã được thi sĩ chép lại bằng thơ. Có thể nói, Phạm Ngọc Lư là hình ảnh điển hình nhất của trí thức miền Nam sau ngày 30 tháng 4. Từ một nhà thơ, người thày, bị bật ra khỏi cuộc sống và xã hội, ông ngơ ngác giữa vòng đời nghiệt ngã:“Ma xui quỷ khiến ta ngồi chợ/ bán gió rao trăng một núi dừa!“. Trong tận cùng bi thảm đó, chìm vào những cơn say, mới có thể làm cho người thi sĩ quên đi những bi quan và chán trường chăng?
“Thôi để yên ta bên chén rượu
Uống say…thành bại cũng bằng thừa
Uống say…ném áo lên nóc quán
Hết nợ hết duyên vĩnh biệt dừa“ (Ngồi chợ)
Nhưng thi sĩ đã lầm. Rượu và những cơn say ấy, chỉ có thể bần cùng hóa thi nhân, chứ không thể kéo ông ra khỏi những gian nan, rách nát của cuộc đời. Và biên cương sặc mùi tử khí, cao su rừng được bón bằng những xác người chết trận, chắc hẳn là nơi thi sĩ phải đi đến:
“… Trời sinh chi đôi vai thêm khổ
Gánh gian nan như gánh tội đồ
Sinh chi kẻ sĩ đem đày đọa
Chôn vùi nơi nắng bẩn mưa dơ
Đi giữa rừng cao su trùng điệp
Lòng đau như vết cạo còn tươi
Mủ cứ chảy bám dày tâm sự
Tâm sự đùn cao như gò mối chôn người…“ (Bụi đỏ)
Người thi sĩ như đèn cù bị dẫn chạy trong vòng vạch sẵn. Cánh đồng hoang bủa vây thân người. Chân trời rộng, nhưng đường về không lối. Sự đầy đọa về thể xác lẫn tư tưởng tâm hồn con người của chế độ hoang tưởng đương thời, không chỉ báo hiệu con đường cụt trước mặt, mà còn giết chết linh hồn của cả một dân tộc. Chiều Qua Châu Thổ là ký ức về những năm tháng lặn ngụp ở đầm lầy Đồng Tháp của Phạm Ngọc Lư. Tuy nó không nằm trong số những bài thơ hay nhất của ông, nhưng đọc ta thấy được tâm trạng cũng như thân phận bèo bọt của kiếp người:
“…Đồng khô rậm tiếng ếch kêu
Mây hoang ủ rũ đăm chiêu rối lòng
Chân trời dang rộng mênh mông
Cố hương thăm thẳm tịnh không lối về
Giang hà im bặt thuyền ghe
Tha phương nhật mộ… não nề bèo mây“
Tròn một con giáp trong cái vòng luẩn quẩn “Đất khách lênh đênh tròn một giáp/ Mười hai năm - mười hai bến đục ngầu“ Phạm Ngọc Lư vùi mình trong kiếp lưu đày với nỗi đau xé nát tâm hồn. Và chính giai đoạn này, sự bần hàn cơ cực và chiếc còng vô hình treo lơ lửng trên đầu người thi sĩ thực sự đã giết chết tuổi xanh, khóa chặt thi hứng Phạm Ngọc Lư “Đỏ quạch mồ hôi chua cơm áo/ Cơm áo bạc tình bán hết thanh xuân“. Sau này, trong giây phút tĩnh tâm trở lại, Phạm Ngọc Lư đã mượn hình tượng đề thơ trên đá của tiền nhân, để khắc lại nỗi đau và sự cô đơn ấy của mình. Lên Núi Đề Thơ là một trong những bài thơ hay viết theo thể lục bát đã khắc họa thành công con người, tâm trạng của Phạm Ngọc Lư như vậy:
“…Chiều hôm non nước lặng tờ
Lòng tôi gọt đá đề thơ khóc mình
Đau tay khắc đậm chút tình
Mũi dao là lệ nhân sinh ròng ròng
Ngàn sau hồn chữ rêu phong
Miên man thiên địa… tấc lòng du du …»
Sau biến cố 30- 4- 1975, thì giá trị đạo đức, giá trị con người bị đảo lộn tùng phèo. Nền văn học miền Nam chính thức bị khai tử, nạn đốt sách, truy bức, tù tội các nhà văn một cách dã man và tàn bạo. Phải sống trong một xã hội nhơ nhuốc, bóp chặt bao tử, lấy miếng ăn làm thước đo nhân phẩm và cai trị con người như vậy, giữ được nhân cách biết còn lại bao người?
Tuy nhiên, khi đọc và nghiên cứu Phạm Ngọc Lư, tôi thấy bóng dáng và chí khí kẻ sĩ bất phục trước danh vọng, tiền tài và quyền lực của nhà thơ Hữu Loan ở trong ông. Đề Thơ Trước Mộ Thanh Xuân là một bài thơ hay, được Phạm Ngọc Lư viết gần đây. Nó như một lời tự sự và những chiêm nghiệm nhân tình thế thái về chính cuộc đời của thi sĩ đã trải qua. Có thể nói, chính đọc bài thơ này của Phạm Ngọc Lư đã gây cho tôi một cảm xúc muốn viết về ông. Chúng ta đọc đoạn trích dưới đây để thấy được cái khí khái và con người thi sĩ Phạm Ngọc Lư :
« Có người bảo ta ngu
Không thèm ăn thóc nhà Chu
Bỏ về quê ăn cỏ
Có kẻ khoái ta ương gàn càn rỡ
Dám chê rượu nhà Tần
Thứ rượu cung đình của phường hiển vinh quý tộc
Tuổi mới ba mươi
Có ai ngờ ta uống hèn nuốt nhục
Lấy giẻ rách che tai
Cắm chông gai rào miệng
Nhặt nhạnh gia tư ít đồ tế nhuyễn
Trèo lên xe trâu
Lui về quê kiểng
Mài răng gặm nhấm cái thanh bần...”
Sự trấn áp, bóp nghẹt tư tưởng văn nghệ sĩ, trí thức cho đến nay, càng bộc lộ sự yếu đuối, bất lực của chính quyền. Những việc làm ấy, chỉ có thể cưỡng chế, nhục mạ thân xác con người, chứ không thể bóp méo suy nghĩ, tư tưởng của họ. Và tôi tin, linh hồn ấy vẫn rực cháy lên... Thật vậy! Tiền tài, danh vọng rồi sẽ qua đi, nhưng tài năng, hồn khí của những thi sĩ, trí thức như Hữu Loan, Phạm Ngọc Lư... chắc chắn sẽ còn đọng mãi qua nhiều thế hệ người đọc.
*Tìm lại hồn thơ cũ.
Tôi biết và đọc Phạm Ngọc Lư khi đi vào nghiên cứu thể thơ Hành, cách nay chưa lâu. Nhưng có thể nói, thơ ông không cầu kỳ, nhưng sáng và trau chuốt. Nó gắn liền với số phận cùng cực của chính nhà thơ, dưới một xã hội đương thời điên đảo dối trá. Với tâm hồn muôn năm cũ và là người luôn sống bằng những hoài niệm u buồn: «Ngủ quên bên chén rượu tàn / Giật mình tỉnh giấc: hai ngàn năm qua!»Do vậy, thơ ông mang nhiều những ưu tư, có chiều sâu suy tưởng, cho ta cảm giác được trở về gần gũi với tiền nhân hơn, khi đọc. Có lẽ, được học chữ Hán và tiếp cận rất sớm với văn học cổ, nên nó đã ảnh hưởng rất lớn đến thơ văn cũng như quá trình sáng tác của Phạm Ngọc Lư. Ông viết nhiều thể loại, mọi đề tài, nhưng lục bát mới là sở trường của ông. Thật vậy, đọc thi tập Đan Tâm, ta có thể thấy, những bài thơ hay của Phạm Ngọc Lư hầu như đều thuộc về thể lục bát.
Nếu những năm gần đây, nở rộ trào lưu cách tân của những thơ không vần, hay những tượng trưng, siêu thực…thì Phạm Ngọc Lư cần mẫn đi nhặt lại hồn thơ cũ. Và có thể nói, ông là một trong những nhà thơ đã thổi hồn cổ phong vào thơ lục bát:
« …Một trời mây lặng gió im
Vút lên cánh hạc giữa tiềm thức hoang
Bay bay lá mộng chín vàng
Bay theo oanh yến lai hoàn kiếp chim
Chập chờn một bóng hoàng uyên
Nhập thân hoàng hạc vào thiên cổ rồi!...” (Chim Mộng)
Vẫn hồn vía cổ thi, thơ tình lục bát của Phạm Ngọc Lư lại mang dáng dấp hiện đại, mới lạ. Thơ lục bát dễ làm, nhưng để không bị nhạt và nhàm chán thì thật không phải ai cũng làm được. Chúng ta hãy bình tâm nhìn lại, hiện tượng lục bát được cho tài năng Đồng Đức Bốn (Hải Phòng) từ mấy chục năm qua. Có thể thấy, thơ ông có cái vỏ đẹp, mượt mà, nhưng nhìn tổng thể thiếu bề dày, chiều sâu. Bởi, thành thật mà nói, Đồng Đức Bốn dường như viết theo (năng khiếu) bản năng và thiếu phần kiến thức. Khi đọc lục bát Phạm Ngọc Lư, ta thấy được sự tìm tòi sáng tạo và những kiến thức sâu rộng của ông đọng lại trong thơ rất rõ ràng. Thật vậy, một nhà thơ tài năng, ngoài năng khiếu bẩm sinh dứt khoát phải có kiến thức sâu rộng:
“Em từ tình sử bước ra
Y trang yểu điệu đôi tà mộng bay…
Chờ nhau gác gió lầu mây
Nghìn đêm giọt nến rơi đầy trang thơ
Nghìn đêm sông lạnh trăng mờ
Trương Chi bạc tóc bên bờ Tương giang!..” ( Thuyền Quyên)
Trên nửa thế kỷ qua, Phạm Ngọc Lư không ngừng tìm tòi, sáng tạo dung hòa giữa thơ cũ và mới, để tạo ra một con đường đi riêng. Sóng Vỗ là một bài lục bát rất hay, không chỉ là lời tự sự, cũng như tâm trạng của nhà thơ với người bạn đã vượt thoát và đang sống ở bên kia bờ đại dương, mà còn tô đậm thêm con đường thơ lục bát của ông:
« từ khi mưa nắng đổi thay
đất trời dị biệt gió mây bất đồng
người bờ Tây - ta bờ đông
ngồi nghe sóng vỗ bạc lòng ngày đêm
. . . . .
lòng ta uống gió mà say
tan ra cồn khói đảo mây chập chờn
biển sâu?
ly biệt sâu hơn !
muôn đời sóng vỗ mỏi mòn bến không
mỏi mòn tiếng sóng nghe chung
bờ Tây tóc rụng... bờ Đông bạc đầu! »
Thông thường, một nhà thơ tài năng, dù là cây cao bóng cả, có nhiều bài thơ hay nhưng cũng không thiếu những bài thơ dở. Đặc biệt trong tập Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư, đã đọc nhiều lần, quả thật, tôi không tìm ra bài thơ nào dở hoặc quá dở. Có lẽ, do tính cẩn thận và ông viết rất ít, nên chưng lọc được tinh cốt chăng?.
Và cũng như nhà thơ Vũ Hoàng Chương do dùng nhiều từ cổ Hán Việt cũng như điển tích, cho nên thơ của Phạm Ngọc Lư thường khó nhận được sự chia xẻ, đồng cảm trong giới bình dân.
Nói thơ ông kén người đọc là như vậy.
Leipzig ngày 15-6-2015
Đỗ Trường
Sáng nay thức dậy, mở Internet, thấy Trang Nhà Lãng Phong, Lý Đức Quỳnh cho đăng bài viết của nhà văn Đỗ Trường viết về nhà thơ PHẠM NGỌC LƯ, “người vẫn giữ lửa cho nền Văn Học Miền Nam” còn ở lại trong nước sau ngày Miền Nam nhuộm đỏ.
Trả lờiXóaCảm ơn nhà phê bình Đỗ Trường qua CHÂN DUNG NHÀ VĂN, đã cho người đọc Hải Ngoại biết được trong số những người cầm bút ở lại với quê hương trong những ngày đen tối phải sống khó khăn vất vả với tư cách “công dân hạng bét”, “phó thường dân Nam bộ” hoặc nói như nhà thơ Nguyễn Hải Phương, người tù cải tạo trong Trại Cải Tạo 2, Ty CA Long An, Bồn Bồn, Mộc Hoá trong một bài thơ trong tù có câu “Quê hương tôi đó tôi là khách”! (Nói một cách văn vẻ, nhận mình là người khách xa lạ trên chính quê hương mình. Chứ không phải người chủ”. Ngày cả người dân miền Nam sau ngày 30 Tháng Tư Đen còn chưa được công nhận là chủ nhân đất nước, nói chi đến người tù cải tạo lao động.
Chắc sau ngày Miền Nam nhuộm đỏ, thi sĩ Phạm Ngọc Lư chỉ âm thầm sáng tác thơ không được đăng báo.
Cảm ơn nhà thơ Lý Đức Quỳnh đã đăng lại bài viết của Đỗ Trường cho các thí hữu Hải Ngoại được được biết tiết tháo của nhà thơ lớn Phạm
Ngọc Lư.
Hồ Công Tâm