Thứ Năm, 29 tháng 8, 2024

XIN QUẺ -Thơ Anh Khờ và Thơ Họa



XIN QUẺ

 

Khấn vái qùy xin với tổ này

Cho con lấy được tấm chồng ngay

Không ham danh lợi… thương hiền hậu

Chỉ muốn tình yêu… ghét xỉn say

Thể dáng xinh trai?  vâng, cũng tốt!

Thơ văn lãng mạn?  dạ, càng hay!

Rằng: "thêm biết nịnh khi hờn giận"

Cúng quảy đền ơn sẽ thiết bày...

Anh Khờ


QUẺ ỨNG

 

Quẻ mới vừa gieo ứng nghiệm này!

Anh chàng đứng cạnh quả người ngay!

Thông minh lịch thiệp… trông như mỹ

Phúc hậu xinh giai… ngó giống tây

Thi họa chưa tường... sau sẽ thử

Cầm kỳ hổng rõ... chút rồi quay

Làm sao để tỏ tình đây nhỉ?

Lạy tổ giúp em kế đặt bày!

Anh Khờ

 

Thơ Họa:

 

QUẺ BÀN

 

Cổ kim chiêm nghiệm thế gian này

Cây thẳng vẫn thường bị chết ngay

Bởi vậy, khuyên nàng đừng chọn tỉnh

Nên rằng, gởi phận phải tìm say

Văn thơ phát tiết càng “đai” lẹ

Trí tuệ khuynh thành mới thật hay

Dẻo lưỡi mềm môi là số một

Trong xăm quẻ đã trắng đen bày

Lý Đức Quỳnh

   28/8/2024

 

BÓI KIỀU

 

Bói Kiều linh nghiệm khấn xin ngay

Giở đúng, trúng trang… được quẻ này:

“Người ấy” gặp nhau còn khép nép

Văn nhân tương ngộ đã thầm say

Trăm năm Bà Nguyệt đà se kết

Duyên nợ Ông Tơ định tuyệt hay!!!

Tỉnh giấc, giật mình Ồ! Huyễn mộng

Lòng  nào tơ tưởng chuyện an bày

Kiều Mộng Hà

 Aug.28.2024

 

GIẢI QUẺ XĂM

 

Hãy nghe Thầy giải quẻ xăm này

Nếu đúng thì xin trọng thưởng ngay

Nhìn nhé: tương lai luôn rạng rỡ

Xem này: tình cảm mãi mê say

Công danh, địa vị thăng...nào dứt !

Của cải, bạc tiền vô...quá hay !

Ồ ! quả thế rồi, tâm bái phục

Tiền, quà hậu hĩnh xếp mâm bày...

  Sông Thu

( 29/08/2024 )

 

NGUYỆN CẦU

 

Lâm râm xin khấn nguyện câu này:

Xin giúp cho đời bớt khổ ngay.

Xin hứa giữ tâm luôn bác ái,

Xin gìn ân đức xóa mê say.

Xin trao chân thiện giao tình tốt,

Xin trọn vẹn lòng gởi cái hay.

Xin hứa không thù gây chuốc oán,

Xin bao hạnh phúc được an bày.

                          *

Xin quẻ nguyện cầu kết quả ngay!

HỒ NGUYỄN

  (29-8-2024)

 

ĐI CHÙA XIN XĂM...

 

        Cúi lạy cầu xin Phật chứng nầy

        Lấy chồng hiền hậu thật thà ngay.

        Trăm năm bền vững duyên kim cải,

        Một kiếp thủy chung...Chớ đắm say...

        Quân Tử Đức Tài nêu chí lớn,

        Giềng ba giử vẹn đấng trai hay...

        Thân con phận gái mười hai bến,

        Phật Tổ cho con xăm tỏ bày...

        Mỹ Nga

 29/08/2024. ÂL,26/07/Giáp Thìn.

 

XIN XĂM GIẢI QUẺ…

 

Vận may một quẻ ứng xăm này…!

Vớ phải anh chồng mới được ngay

Chỉ tiếc hơi già, lương hậu hỉnh

Mà thương luống tuổi, rượu không say

Nghỉ hưu chiếc bóng, vâng càng tốt

Không vướng gia đình, dạ quá hay

Nịnh hót bùi tai khi giận dỗi

Năng cầu tất ứng, “ lễ “ chưng bày…!

          MAI XUÂN THANH

  Silicone Valley, August 29, 2024

 

XĂM THƯỢNG.

 

Lao đao vận hạn cả năm này

Đi lễ chùa Cầu (*) lắc thẻ ngay

Xăm thượng:gia đình sung hạnh phúc

Số cao:tài lộc vượng mê say

Ơn trên sắp sẵn cho lời tốt

Kẻ hạ vui mừng giải quẻ hay

Thời tới làm sao mà cản được

Tiền đô viếng cúng dọn bàn bày.

     LAN.

(30/08/2024).

(*)Cầu=tên của ngôi chùa.

 

HỎI AI ,

 

Biết hỏi ai đây ở kiếp này

Ông trời liệu giúp kết đôi ngay ?

Cô đơn năm tháng lòng ao ước

Tím ngắt đêm ngày dạ ngất say

Một chút thăng hoa nào có dở

Dăm ba lãng mạn đến là hay!

Đôi khi sóng gió làm chao đảo

Vượt thác bình yên ,nguyện tỏ bày !

PHƯỢNG HỒNG

 

XIN XĂM..

 

Đi chùa lễ Phật lắc xăm này

Cầu nguyện hoà bình hãy đến ngay

Tai họa xin đừng cho  ập đến

Cuộc đời hãy đạt sớm điều hay

Gia đình hạnh phúc niềm mong mỏi

Thế giới an bình nỗi đắm say

Quẽ Thượng ứng liền xin cúng bái

Nhang đèn trà quả được chưng bày

Songquang

 20240831

 

ƯỚC NGUYỆN

 

Cầu cho xã hội ổn yên này

Ruột dạ con người sống thẳng ngay

Dốc lực chơi bài hư tánh đắm

Đua nguồn uống rượu hỏng đời say

Hiền lương bác ái hương thơm dẫn

Độ lượng nhân từ phẩm tốt hay

Tứ chúng đồng tu là phúc quả

Vài câu ước nguyện muốn trình bày

     Minh Thúy Thành Nội

Tháng 9/7/2024

 

THUẬT SỐ ĐÔNG PHƯƠNG

 

Đông phương thuật số, những ngành này

Khoa học không cần, vẫn đúng ngay

Số đoán tử vi, người ngưỡng mộ

Chỗ xem phong thủy, chúng mê say

Bói kim tiền trúng, thời càng tốt

Xem tướng mạo hiền, thế cũng hay

Được hỏi làm sao mà giỏi vậy?

Bốc sư giấu kỹ chẳng phơi bày.

(Phan Thượng Hải)

9/4/24 

 

CHẨN MẠCH ĐÔNG Y

 

Đông y không khó, chỉ ngần nầy

Chẩn mạch sờ tay biết sẵn ngay

Huyết khí lưu thông tìm cặn kẽ

Tứ thời ứng hợp học mê say

Âm dương hòa điệu châm thêm khéo

Ngũ hành nghịch thuận tể thêm hay

Bệnh căn phô sẵn thầy tìm đoán

Mệnh số trời ban vận đã bày

(Hồ Mỹ Đức)

     9/9/24

 

***

NHỮNG NGÀNH THUẬT SỐ ĐÔNG PHƯƠNG 

(Bs Phan Thượng Hải)

Từ đời nhà Hán (thế kỷ thứ 3 tr CN), những ngành Thuật Số (trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc của Âm Dương Gia) được thực hành từ những Đạo sĩ của Đạo Giáo (thuộc Chiêm Nghiệm Phái) và đổi thành những tên mới cho đến ngày nay, trừ ngành Thiên Văn.

         Ngành Dịch Phổ thành ra ngành Tử Vi.

         Ngành Ngũ Hành thành ra ngành Tử Bình.

         Ngành Bói thường gọi là ngành Bói Toán, thịnh hành và tồn tại là phép Bói Giã Hạc Kim Tiền.

         Ngành Tạp Chiêm thành ra ngành Xem Tướng.

         Ngành Hình Pháp thành ra ngành Phong Thủy.

         Ngành Thiên Văn 

Từ thời nhà Hán (thế kỷ thứ 3 tr CN) cho đến ngày nay, ở Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn tồn tại những ngành Thuật Số này trừ ngành Thiên Văn (không còn tồn tại trong thời đại khoa học của Tây phương).  Ngoài ra trong Đạo Giáo có xuất hiện thêm ngành Sấm hay Sấm Ký nhưng không còn tồn tại cho đến ngày nay. 

Thầy Bói ngày nay có thể kiêm đến cả 4 ngành: Xem Quẻ (Bói), Xem Tướng (Tạp Chiêm), Tử Vi (Dịch Phổ) và Tử Bình (Ngũ Hành).  Chuyên gia về Phong Thủy gọi là "Thầy Phong Thủy".  

1. Ngành Tử Vi

Ngành Dịch Phổ (Almanacs) của Âm Dương Gia trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc là xếp đặt lại vị trí 4 mùa chia đúng các tiết (equinoxes and solstices), hiểu giờ (concordances of the periods) của mặt trời và mặt trăng cũng như của 5 hành tinh để khảo sát lạnh nóng sống chết.  Nhờ thuật nầy, điều lo về tai ách (calamities), điều vui và tốt lành (happiness of prosperity) đều biết được rõ ràng.

Từ ngành Dịch Phổ có ngành Tử Vi của Đạo Giáo.  

         Phép này phải theo địa chỉ để phân dương nam, dương nữ, hay là âm nam âm nữ. Phân âm dương rồi phải dùng phép Nạp âm mà lập cục, để xem sinh vào cục nào trong ngũ hành, hoặc hỏa lục cục, hoặc mộc tam cục... Lập cục rồi phải an thân và mệnh và phân cung.  Phân cung xong thì cứ lần lần mà an các vị sao cát tính, hung tính...  

         Phép đoán thì phải xem mệnh và thân đứng vào cung nào bằng cách lấy lá số theo ngày tháng năm sinh để biết các vì sao trên mỗi cung; rồi xét các vì sao chinh chiếu, hợp chiếu, giáp chiếu thế nào mà đoán mệnh hay dở.  Mỗi cung chịu trách nhiệm một vấn đề khác nhau, từ đó mà suy ra vận mệnh trước sau.  

         Số Tử Vi thì tinh tường hơn các phép khác.  Tục truyền là của ông Trần Đoàn đời nhà Tống đặt ra, nhưng không lấy gì làm bằng chứng.  Tuy nhiên Tử Vi không biết được sự thay đổi của Con người khi họ tích đức làm thiện hoặc làm ác?

2. Ngành Tử Bình

Ngành Ngũ Hành (Five Elements) của Âm Dương Gia trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc cũng bắt đầu bằng sự vận chuyển của ngũ đức (5 powers), 5 nguyên tố (5 elements), suy cho cùng cực thì không có gì là không thấu.

Tục truyền rằng từ đời nhà Hán đã có Hà Thượng Công soạn ra số Tam Mệnh, đến đời Nam Bắc Triều có Đào Hoằng Cảnh soạn ra bộ sách Tam Mệnh Sao, đời nhà Tống có Lâm Hiếu Công soạn ra sách Lộc Mệnh.  Đó là những sách để đoán số mệnh cho người ta.  Đại để số nào cũng suy tính âm dương ngũ hành sinh khắc chế hóa và tính theo chiều độ nhật nguyệt tinh thần hợp với ngày sinh tháng đẻ mà đoán số mệnh giàu nghèo sang hèn thọ yểu của mọi người.  Đó là ngành xem số Hà Lạc.  

Số Hà Lạc dùng bát tự: năm tháng giờ thuộc về can chi rồi tính theo số mục mà ghép vào quái hào trong Dịch mà đoán.

Từ đó là ngành Tử Bình (gần giống và hay lẫn lộn với ngành Tử Vi) cho đến ngày nay.

         Lấy tứ trụ ngày tháng năm sinh coi theo 4 can và 4 chi, còn gọi là bát tự.  

         Diễn giải theo Ngũ Hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) mà biết được vấn đề trong chân mệnh để tìm dụng thần, hỷ thần thích hợp mà bổ khuyết.

Ngành Tử Bình (số Hà Lạc) thường cùng với ngành Tử Vi (số Tử Vi) và ngành số Tiền Định được gọi chung là ngành Xem Số.

Số Tiền Định thì tục truyền là từ Quỉ Cốc tiên sinh ở đời Xuân Thu soạn ra có lập cục sẵn ngày sinh tháng đẻ.  Mỗi cục có mấy câu thơ thất ngôn và có mấy định cách để đoán việc hay dở của người ta.  Song những lời lẽ tầm thường ý tứ thiển cận cho nên không mấy người dùng.

3. Ngành Bói hay Bói Toán 

Đại cương theo lịch sử thì ngành Bói hay Bói Toán (Divination) gồm có Bói Dịch, Bói Giã Hạc (nhất là Bói Kim Tiền) và Bói Chiết Tự.  Âm Dương Gia trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc chỉ có Bói Dịch rồi sau đó mới có Bói Giã Hạc và Bói Chiết Tự trong Đạo Giáo và chỉ có Bói Giã Hạc (nhất là Bói Kim Tiền) tồn tại và thịnh hành cho tới ngày nay. 

* Bói Dịch

Ngành Bói hay Bói Toán (Divination) bắt đầu với Bói Dịch bằng cỏ thi và bằng mai rùa là phép bói chính (main methods of divinatrion) ở Trung Quốc xưa.  

         Theo phép bói mai rùa thì đục lỗ ở trong vỏ rùa hay trong những miếng xương phẳng, rồi đem hơ vào lửa nóng trên chiếc đủa bằng kim loại để làm thành những đường nứt chung quanh lỗ.  Thầy bói giải thích những đường nứt ấy theo hìng trạng của chúng, để trả lời câu hỏi nêu ra.

         Theo phép bói bằng cỏ thi thì bói trộn các nhánh cỏ thi làm thành những tổ hợp về số để có thể giải thích theo Kinh Dịch.  

         Mục đích chính của phần nguyên thủy của Kinh Dịch là để giải thích cho 2 ngành bói mai rùa và nhất là cỏ thi.  Do đó còn được gọi là phép Bói Dịch.

Kinh Dịch vốn là sách bói.  Khi được hỏi về 1 trường hợp riêng biệt nào đó trong đời sống thì thầy bói trộn các nhánh có thi (hay hơ xương hoặc mu rùa) sẽ có được một vạch nào trong một quẻ nào.  Sau đó lời giải thích của quẻ và hào trong Kinh Dịch nầy (của Phục Hy, Văn Vương hay Chu Công) được coi là cho ra trả lời điều muốn biết.  Từ đó ta áp dụng tất cả những giải thích nầy vào các trường hợp riêng biệt khác nhau của đời sống thực tại khi được đem ra bói.  

Trước tác nguyên thủy của Kinh Dịch gồm có 8 quẻ (Bát Quái).  Mỗi quẻ (quẻ đơn) gồm 3 vạch, hoặc là vạch đứt hay vạch liền.  Chồng 2 quẻ đơn làm thành những quẻ kép có 6 vạch người ta có tất cả 64 quẻ kép (8x8=64).  Bản văn nguyên thủy của Kinh Dịch gồm 64 quẻ kép ấy và những lời giải thích ý nghĩa tượng trưng của mỗi quẻ.

Theo truyền thuyết thì Phục Hi, ông vua hoang đường đầu tiên của Trung Quốc, là người đặt ra 8 quẻ.  Theo vài học giả thì chính Phục Hy đã chồng 8 quẻ lên thành 64 quẻ.  Theo những học giả khác thì đó là công trình của Chu Văn Vương vào thế kỷ 12 tr CN.  Theo những người sau nầy, Chu Văn Vương viết lời giải thích về các quẻ và về những hào (những vạch riêng trong mỗi quẻ), theo những người khác thì Chu Văn Vương chỉ giải thích về quẻ còn lời giải thích về hào là việc của Chu Công Đán, người con nổi tiếng của Văn Vương.  Quẻ hay quẻ đơn là Quái, còn quẻ kép là Trùng Quái.

Khoa học hiện đại cho rằng sự phát minh quẻ đơn và quẻ kép bắt đầu từ thời nhà Chu (Chu Văn Vương và Chu Công Đán): những quẻ nầy chỉ phỏng theo những đường nứt trên mu rùa hay mảnh xương được hơ lửa khi bói, được thực hành dưới thời nhà Thương (là triều đại trước nhà Chu).  Thầy bói hơ mu rùa hay miếng xương vào lửa rồi theo những đường nứt trên đó mà trả lời những câu hỏi đã nêu ra cho thầy bói.  

Những đường nứt ấy có thể thiên hình vạn trạng cho nên khó mà giải thích theo một thể thức nhất định.  Vì vậy trong buổi đầu nhà Chu phép bói ấy hình như được bổ sung bằng một phép khác: người ta trộn những nhánh cỏ gọi là cỏ thi để có những tổ hợp làm thành số lẻ và số chẵn.  Những tổ hợp ấy có số giới hạn, cho nên người ta có thể giải thích theo những thể thức cố định.  Hiện nay người ta nghĩ rằng những vạch liền và vạch đứt (tức là lẻ và chẵn) của những quẻ đơn và quẻ kép là biểu thị bằng nét vẽ của những tổ hợp trên.  Do đó khi trộn những nhánh cỏ thi thầy bói có thể làm thành một vạch nhất định hay một số vạch rồi xem những lời giải thích trong Kinh Dịch mà trả lời những câu hỏi đã nêu ra.

Có lẽ đây là nguồn gốc của Kinh Dịch.  Người ta cắt nghĩa tên nó như vậy vì nó liên quan đến những tổ hợp luôn thay đổi của các vạch.  (Dịch = đổi).

Như vậy phép Bói Dịch là Bói Toán dùng cỏ thi (và mu rùa) dựa trên Kinh Dịch thì đã có từ thời Thượng cổ, về sau được các nhà Đạo Học như Quản Lộ đời Tam Quốc, Quách Phác đời Tấn đều nổi tiếng giỏi nghề bói toán.  Dần dần Bói Dịch bị thay thế bởi Bói Giã Hạc.

* Bói Giã Hạc

Vào đời nhà Hán, ngành Bói Toán của Đạo Giáo dùng phương cách khác mà không dùng mu rùa hay cỏ thi nữa nhưng vẫn dựa trên Kinh Dịch, đó là Bói Giã Hạc.

Bói Giã Hạc: 

         Thường dùng 3 đồng xu có lỗ, mỗi lần gieo được một Hào âm hoặc dương hoặc động.  Sách quẻ Dịch có 384 quẻ con, tra theo đó rồi suy luận.  Do đó còn gọi là Bói Kim Tiền.

         Có hình thức khác như Coi theo giờ hay bốc số nhưng cuối cùng cũng là chọn được quẻ để suy luận.

Bói Giã Hạc (nhứt là Bói Kim Tiền) thịnh hành và tồn tại cho đến ngày nay. 

Bói Giã Hạc hay Bói Kim Tiền là phép của Kinh Phòng đời nhà Hán đặt ra.  Về sau có ông Giã Hạc lập cục sẵn các quẻ và nghị luận thêm cho nên tục quen gọi là phép Bói Giã Hạc.  Phép này giản tiện hơn các phép khác cho nên người ta theo dùng nhiều mà nhất là các thầy bói bây giờ chỉ chuyên dùng phép này mà thôi. 

Phép Bói Giã Hạc phải có 3 đồng tiền. 

         Khi gieo quẻ hễ 3 đồng ngửa cả gọi là Trùng; ba đồng sấp cả gọi là Giao; một sấp hai ngửa gọi là Đơn; một ngửa hai sấp gọi là Sách.  

         Một lần gieo quẻ là một Hào: Trùng là Hào thái dương, Giao là Hào thái âm, Đơn là Hào thiếu dương; Sách là Hào thiếu âm.  

         Gieo 6 lần thành ra một quẻ, rồi xem Hào nào động, Hào nào tĩnh mà đoán.

* Bói Chiết Tự

Bói Chiết Tự là phép của ông Thiệu Nghiêu Phu đời Tống đặt ra, đã sẵn có từng quẻ và từng giải đoán.  Ai có việc gì muốn bói thì tùy ý mình muốn viết chữ gì cũng được nhưng phải viết một chữ rồi trông hình chữ hoặc đếm nét chữ mà ghép vào quẻ, xem lời quẻ thế nào mà đoán được.

Bói Chiết Tự không thịnh hành và phổ thông như Bói Giã Hạc Kim Tiền.  Nó không còn tồn tại ở VN vì không còn dùng Hán tự nữa.

4. Ngành Xem Tướng

Ngành Tạp Chiêm (Miscellaneous Divinations) của Âm Dương Gia trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc sau nầy là ngành Xem Tướng (physiognomy) của Đạo Giáo.

Phép Xem Tướng này cứ như trong lịch sử thì có đã lâu.  Đời xưa mỗi một ông vua lên trị vì là sử đã tả cái tướng lạ, như vua Nghiêu thì lông mày có 8 vẻ, vua Thuấn thì mỗi con mắt có 2 con ngươi...  

Nhưng thật thì đến đời Nam Bắc Triều, ông Đào Hoằng Cảnh mới làm ra sách Tướng Kinh.  Về sau lại có những sách như Mã Y Tướng Pháp, Liễu Trang Thủy Kinh, Vương Thị Phong Giám, Tướng Lý Hành Chân... đều bàn về việc xem tướng.

Xem tướng thì nhiều nhưng đại lược thì xem bộ mặt, xem bàn tay, xem ngón tay và xem thân thể trường đoản ẩn lộ như: ngũ trường, ngũ đoản, ngũ lộ, ngũ tiểu...

5. Ngành Phong Thủy

Ngành Hình Pháp (System of Forms) của Âm Dương Gia trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc sau nầy được gọi là ngành Phong Thủy (Feng-sui), dịch theo nghĩa đen là "gió-nước" (wind and water).  Phong thủy được căn cứ vào khái niệm con người là sản vật của vũ trụ.  Do đó nhà cửa và mồ mả phải được bài trí theo cách nào cho hợp với những lực thiên nhiên, nghĩa là với "gió nước" (phong thủy).  Ngày nay cũng là ngành Phong Thủy. 

Phép Phong Thủy còn gọi là Phép Địa Lý 

         từ đời Tần đã có một người ẩn sĩ soạn ra kinh Thanh Nang, 

         đến đời nhà Hán thì có Trương Tử Phòng soạn ra bộ Binh Sa Ngọc Xích, 

         đời nhà Tấn có ông Quách Phác soạn ra Táng Thư, 

         đời nhà Tống có ông Trương Tử Vi soạn ra bộ Ngọc Tủy Chân Kinh, 

         đời nhà Nguyên có ông Lưu Bỉnh Trung soạn ra bộ Kim Đẩu Quyết Táng Pháp...  

Phép Phong Thủy truyền khắp mọi nơi.  Nước ta có ông Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, về đời nhà Lê sang học phép Phong Thủy bên Tàu trở về nước nhà làm đất nổi tiếng lừng lẫy; đến bây giờ nói đến ông Tả Ao là ai cũng biết.  Sau lại có ông Hòa Chinh, người tỉnh Hà Nam bây giờ, đỗ Tiến sĩ cũng sang Tàu học được phép Phong Thủy có làm bộ sách để lại.

Theo Trần Trọng Kim, Phép Phong Thủy thì phải phân biệt hình đất theo thủy hỏa mộc kim thổ.  Phép đi tìm đất trước hết phải tìm tổ sơn, rồi đó dò theo long mạch mà tìm huyệt.  Long mạch có chỗ cao như gò đống núi non thì gọi là âm long, chỗ bình dương thì gọi là dương long.  Chỗ nào có tụ khí tàng phong thì mới là chỗ huyệt tốt.  Chỗ sơn cùng thủy tận là nơi tuyệt địa, tức là chỗ xấu. 

Phép Phong Thủy chia làm 3 môn:

         Nhật Gia Học: tinh về xem thái dương chiền độ để xem cái hành độ của nhật, nguyệt, ngũ tinh và nhị thập bát tú, ngày giờ nào chiếu vào địa phận nào rồi mới làm đất.

         Hình Gia Học: môn này chỉ xem hình đất mà làm.

         Pháp Gia Học: môn này thì chuyên về lý khí, cốt phải tính về âm dương ngũ hành.  Phải phân biệt rõ chỗ nào là âm chỗ nào là dương, chỗ nào là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Cốt làm sao cho sinh khắc chế hóa hợp độ mới được.  

Tuy rằng nhà phong thủy giỏi phải tinh cả ba môn, nhưng ai biết một môn cũng làm đất được.

Đến đầu thế kỷ 20, Phép Phong Thủy ta còn thường gọi là phép Địa Lý còn đang thịnh hành lắm.  Bất kỳ ở đâu có cất đình dựng chùa hoặc làm nhà làm cửa để mồ để mả đều phải tìm nơi hình thắng và chỗ cát huyệt.  Nơi nào để lập nhà cửa thì gọi là dương cơ, nơi nào để mồ mả thì gọi là âm phần.  Tục vẫn cho dương cơ tốt hơn âm phần, nhưng thường thì không mấy người kén chọn dương cơ như là phải tìm đất để mồ để mả.

6. Ngành Thiên Văn

Ngành Thiên Văn (Astrology) là ngành sắp thứ tự 28 sao (28 constellations), ghi chép sự vận chuyển của 5 hành tinh (5 planets) và của mặt trời và mặt trăng để ghi những biến tượng lành dữ (manifestations of fortune and misfortune).

Ngành Thiên Văn trở thành lỗi thời so với khoa học của Tây phương.  Tuy nhiên 28 vì sao của Âm Dương Gia từ thời Xuân Thu và Chiến Quốc cũng giống với 28 vì sao của khoa học Tây phương.

Nhị Thập Bát Tú (28 sao) gồm có:

         Giác Mộc Giao: sao Giác (Spica).  Giao = Cá Sấu

         Càng Kim Long: sao Càng (Virgo).  Long = con Rồng

         Đê Thổ Lạc: sao Đê (Libra).  Lạc = con Lạc Đà

         Phòng Nhật Thố: sao Phòng (Libra).  Thố = con Thỏ

         Tâm Nguyệt Hồ: sao Hồ (Antares).  Hồ = con Chồn Cáo

         Vĩ Hỏa Hổ: sao Vĩ (Scorpius).  Hổ = con Cọp

         Cơ Thủy Báo: sao Cơ (Sagittarius).  Báo = con Beo

         Đẩu Mộc Giải: sao Đẩu (Sagittarius).  Giải = con Cua

         Ngưu Kim Ngưu: sao Ngưu (Capricormus).  Ngưu = con Trâu

         Nữ Thổ Bức: sao Nữ (Aquarius).  Bức = con Dơi

         Hư Nhật Thử: sao Hư (Aquarius).  Thử = con Chuột

         Nguy Nguyệt Yến: sao Nguy (Aquarius/Pegasus).  Yến = con Én (Nhạn) 

         Thất Hỏa Trư: sao Thất (Pegasus).  Trư = con Heo

         Bích Thủy Dư: sao Bích (Algenib).  Dư = con Cừu (Trừu)

         Khuê Mộc Lang: sao Khuê (Andromeda).  Lang = con Chó Sói xám

         Lâu Kim Cẩu: sao Lâu (Aries).  Cẩu = con Chó

         Vị Thổ Trĩ: sao Vị (Aries).  Trĩ = con Chim Trĩ

         Mão Nhật Kê: sao Mão (Pleiades).  Kê = con Gà

         Tất Nguyệt Ô: sao Tất (Taurus).  Ô = con Quạ

         Chủy Hỏa Hầu: sao Chủy (Orion).  Hầu = con Khỉ

         Sâm Thủy Viên: sao Sâm (Orion).  Viên = con Vượn

         Tỉnh Mộc Hãn (Ngạn): sao Tỉnh (Gemini).  Hãn = con Bò

         Quỷ Kim Dương: sao Quỷ (Cancer).  Dương = con Dê

         Liễu Thổ Chương: sao Liễu (Hydra).  Chương = con Cheo (=Mouse-Deer)

         Tinh Nhật Mã: sao Tinh (Alphard).  Mã = con Ngựa

         Trương Nguyệt Lộc: sao Trương (Crater).  Lộc = con Hưu/Nai

         Dực Hỏa Xà: sao Dực (Corvus).  Xà = con Rắn

         Chẩn Thủy Dẫn: sao Chẩn (Corvus).  Dẫn = con Giun/Trùng

7. Ngành Sấm hay Sấm Ký 

Ngành Sấm học có thể có từ Âm Dương Gia trong thời Chiến Quốc nhưng không được phổ thông. Từ đời Chiến Quốc những Âm Dương gia đã đặt ra Sấm để nói trước những việc chưa có.  Đại khái như dở kinh Dịch, kinh Thư hay là kinh Thi ra lấy mấy chữ, rồi tính xem giờ nào, ngày nào, để xếp vào ngũ hành sinh khắc thế nào.  Lại xem bát môn như "sinh, tử, đỗ, tuyệt, hưu, tù, vượng, tướng": hễ được vượng và tướng thì tốt, mà phải tử và tù thì xấu.  Sau cùng hoặc lấy ý tưởng trong chữ hay là trong câu hoặc đếm nét đếm chữ để tính ra quẻ mà đoán mọi việc.  Lại có cách nạp âm là lấy ngũ âm là: cung, thương, giốc, chủy, vũ, mà gọi ra tên họ người ta.  

Thí dụ như đời vua Tần Thủy Hoàng, có người xem Sấm mà đặt ra câu "Vong Tần giả Hồ" nghĩa là nói ngươi Hồ Hợi làm mất nhà Tần.

Những cách chiêm nghiệm ấy có đặt ra thành sách gọi là sấm vĩ như Dịch vĩ, Thư vĩ, Thi vĩ... 

         Trong đời Tây Hán có Lưu Hướng và Khuông Hành giỏi về sấm vĩ.  

         Đến đời Vương Mãng và đời Hán Quang Võ Đế thì sùng tín Sâm Vĩ lắm.  Vua Hán Quang Võ Đế dùng người nào hay làm việc gì cũng quyết ở Sấm văn cả.  

         Từ đó về sau Sấm học thịnh lắm, các Đạo sĩ thường hay học tập.

Đến đời nhà Tống có ông Thiệu Nghiêu Phu soạn ra bộ sách Hoàng Cực Kinh Thế Thư lấy thuật số mà tính sự biến đổi trong trời đất và có thể biết trước những sự sẽ có về sau.  Phép tính ấy gọi là Tính Thái Ất, khác với lối đặt Sấm ngày trước vì nó chủ ở toán số.  Tục truyền rằng phép tính có thể tính được việc 500 về trước và 500 năm về sau.  Ở bên Tàu thì có Lưu Cơ đời nhà Minh giỏi Thái Ất, mà ở bên ta chỉ có ông Nguyễn Bỉnh Khiêm tức là Trạng Trình, cũng tinh thông về phép tính ấy và tục truyền rằng ông có đặt ra nhiều Sấm Ký nói về thời sự mà nhiều người cho là linh nghiệm lắm.

 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn và giữ bản quyền

Bài viết này đăng lần đầu trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa phần Triết Học và Tôn Giáo.

Tài liệu tham khảo

         1) Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc (Phùng Hữu Lan - bản dịch của Nguyễn Văn Dương).

         2) Đạo Giáo (Trần Trọng Kim) - Nam Phong Tạp Chí.

         3) Đạo Giáo của Trung Quốc (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com 

         4) Lịch Sử Triết Lý Nho Giáo (Bs Phan Thượng Hải) - phanthuonghai.com

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét

*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!