BÀI TUỔI MÙ KHƠI
(Tặng Phạm Kim Vinh, bạn tôi)
Ta ở nơi đây chán lắm rồi
Cõi thừa hiu hắt tuổi mù khơi
Đêm dài thương giấc chiêm bao gẫy
Ngày ngắn sầu cơn mộng lẻ loi
Mưu sinh hổ thẹn thơ kênh kiệu
Kiếm báu xua gà, chí lớn rơi
Châu báu đem bày chung sỏi đá
Nghẹn ngào cho thế, xót cho thời
Phồn hoa chưa lấm chân phiêu lãng
Tuấn mã chùng cương mỏi vó hồi
Da ngựa biết chê thây chiến bại
Lạc loài xem ngượng dáng văn khôi
Nhân gian mê sảng phiền kiêu sĩ
Chữ nghĩa tâm tư hứng ngậm ngùi
Đất khách ế dàn vai cổ lại
Quê người sân khấu chuộng đười ươi
Trống dấy phong ba răn bạo lực
Bẽ bàng khán giả tưởng trò chơi
Tủi thân giọt lệ nghìn năm cũ
Đất lệch trời nghiêng giận tiếng cười
Ôi, vẫn hiêu hiêu phường thoán nghịch
Diễn tuồng quốc sỉ tích tôi đòi
Pháp trường mạng nhện trùm bao phủ
Nghĩa sĩ hôm nay được mấy người
Đạn uất chẳng nhằm tim đạo tặc
Quốc thù quất sảng những lằn roi
Lửa thiêng thui chó đau hồn lửa
Cứ ngỡ giang sơn sắp rạng ngời
Rượu không đủ ấm hong tâm sự
Ta ở nơi đây chán lắm rồi
Nhã nhạc dối lừa xiêm áo nát
Tình yêu con nước tính đầy vơi
Ra ngẩn vào ngơ đào kép mạt
Vở chèo kháng chiến khó sang hồi
Văn chương mốc thếch bày siêu thị
Cũng rực vàng son áng tuyệt vời
Há chửa lọt tai thơ Nguyễn Khuyến
Còn dương danh hão thuở tàn hơi
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Mà chia chiếu rách vẻ vang ngồi
Tư tưởng cao siêu anh chụp mũ
Lập trường bất hủ gã thư rơi
Gà nhà bôi mặt hung hăng đá
Bầu bí đồng dao cháy nghĩa rồi
Có nghe sông núi đang quằn quại
Mỗi phút găm thêm mỗi rã rời
Khoai sắn không làm căng vú mẹ
Nhọc nhằn lao động miếng cơm ôi
Con nhai, con nghiến, con đòi sữa
Mẹ khóc, than van với đất trời
Đất thấp nín câm niềm bất hạnh
Trời cao câm nín nỗi con người
Đạn uất chẳng nhằm tim đạo tặc
Quốc thù quất sảng những lằn roi
Nhã nhạc dối lừa xiêm áo nát
Tình yêu con nước tính đầy vơi
Cha chờ bán máu về đong gạo
Máu đỏ gạo đen nuốt nhục đời
Đồng bạc dày vò đêm đánh đĩ
Nuôi chồng tù ngục chốn xa xôi
Ôi, vẫn hiêu hiêu phường thoán nghịch
Diễn tuồng quốc sỉ tích tôi đòi
Tư tưởng cao siêu anh chụp mũ
Lập trường bất hủ gã thư rơi
Có nghe sông núi đang oằn oại
Mỗi phút găm thêm mỗi rã rời
Em nhỏ thiên thần bươi đống rác
Thèm đường liếm giấy gói bu ruồi
Thân thể cọt còi như chó đói
Đứng chờ nhặt gặm miếng xương rơi
Đứng chờ húp nước tô canh cặn
Ở quán bên hè, ở khắp nơi
Ra ngẩn vào ngơ đào kép mạt
Vở chèo kháng chiến khó sang hồi
Mười năm lao cải ai ai đó
Ai những thuyền nhân đắm biển khơi
Ai mỏi mắt trông cờ phục quốc
Để reo động đất, gặt mùa vui
Pháp trường mạng nhện trùm đao phủ
Nghĩa sĩ hôm nay được mấy người
Oán khí bốc lên mây cố quận
Bút nào tâm huyết, hận nào nguôi
Văn chương mốc thếch bày siêu thị
Cũng rực vàng son, áng tuyệt vời
Gót thù đinh nhọn xuyên gan phổi
Tổ quốc từng giây ứa máu tươi
Trống dấy phong ba răn bạo lực
Bẽ bàng khán giả tưởng trò chơi
Nhân gian mê sảng phiền kiêu sĩ
Chữ nghĩa tâm tư lãnh ngậm ngùi
Da ngựa biết chê thây chiến bại
Tú cầu giao nhảm chọn chồn hôi
Cỏ rác lênh đênh dòng thế sự
Ném tung vương miện, đạp xô ngôi
Ái Khanh, trẫm giã từ Khanh nhé
Ta ở nơi đây chán lắm rồi
Cáo phó tài hoa chuông đổ muộn
Em còn lệ thắm ướt chiều côi
Thì xin giữ lại cho non nước
Ta đi hiu hắt tuổi mù khơi.
DUYÊN ANH
(10/1987)
*Duyên Anh là bút hiệu của nhà văn
Vũ Mộng Long, sinh ngày 16/8/1935 tại miền Bắc, di cư vào miền Nam năm 1954.
Ông là nhà văn nổi tiếng từ trước năm 1975. Khi Cộng Sản Bắc Việt nhuộm
đỏ miền Nam, ông bị bắt tù lao động cải tạo nhiều năm. Sau đó ông vượt biên
sang Pháp định cư. Sinh thời ông bị tiểu nhân ganh ghét, đố kỵ tài năng, đặt điều
xuyên tạc bôi lọ thanh danh ông, thậm chí chúng còn bỏ tiền ra thuê du đãng sát
hại ông trong một dịp từ Pháp quốc sang thăm bạn bè ở thủ Đô Tị Nạn Orange
County. Kết quả ông bị hôn mê, bại liệt, phải trở về Pháp dưỡng bệnh và mang tật
mãi đến khi mất, ngày 6/2/1997 tại Pháp. Ngoài bút hiệu Duyên Anh, ông còn dùng
vài bút hiệu khác như Độc Ngữ, Đồng Nai Tư Mã, Thương Sinh,… Ông chẳng những là
tiểu thuyết gia, một nhà văn lớn mà còn là một nhà thơ có tài trong văn học Việt
Nam hậu bán thế kỷ 20.
Thơ Duyên Anh có giọng bi tráng,
hào sảng, ngậm ngùi, ưu tư thời thế… chứng tỏ một tài năng thi ca trác tuyệt. Để
tưởng niệm Duyên Anh, xin được trích đăng bài hành nhan đề “BÀI TUỔI MÙ KHƠI”
trích trong tác phẩm “Sĩ Phu Nước Việt” của nữ sĩ Mai Nguyên viết về sự nghiệp
của ba nhà văn đồng thời là kẻ sĩ Việt Nam trong thời đại lưu vong của chúng
ta: Duyên Anh (1935-1997), Phạm Kim Vinh (1932-2000) và Phạm Nam Sách
(1932-2000). Xin cảm ơn nữ sĩ Mai Nguyên đã có công gìn vàng giữ ngọc để hôm
nay chúng ta có dịp được thưởng thức một áng thơ bi tráng tuyệt vời.
Hồ Công Tâm
Thơ Họa:
NIỀM THỨC BÊN BỜ GIÁC
Cực thấu sương mưa quá đủ rồi
Tủi hờn dâng sóng ngợp trùng khơi
Mơ xa hoang hoải mùa chinh chiến
Mộng giấc tan lòa, ánh nguyệt loi.
Kiếm báu tra bao,thôi phách kiệu
Thối mùa,há ngõi thóc vương rơi?
Kim tiền phú túc thành tro bụi
Nịnh thế sao đang, chịu lạc thời.
Ngựa thố băng ngàn tung vó lãng
Sờn chi cương đứt ,thúc vô hồi
Bọc thây ,da ngựa quen mùi máu
Sĩ khí khôn màng buổi phục khôi?
Say chẳng bõ cơn hồn ẩn sĩ
Phơi trang,xác chữ,luống bùi ngùi
Vênh vai kịch diễn tuồng ma mị
Sân khấu trường đời vốn thối ươi.
Cờ đời cao thấp,ai khôn định
Lỡ nước hờn chi thế cuộc chơi?
Mượn vay sòng phẳng, hồn cao khiết
Hiềm tỵ ghét ghen,...trả nụ cười"!"
Mẫn trí thông tường điều trở nghịch
Sa chân, khôn lụy tiếng theo đòi
Cán cân công lý lòa đen trắng
Lẫn lộn vàng thau,tủi kiếp người!
Đạo nát bẩn hơn phường cẩu tặc
Lầy thân chi quản vết lằn roi
Giữa cơn tao loạn mờ sương khói
Vùi lửa om than ẩn ánh ngời,
May rủi khó lường căn vận mạt
Nguồn xa thắc thỏm hóng mây hồi
Tự nhiên hữu xạ ,hương lưu hậu
Áng tuyệt! Chắc chi đã khác vời"?"
Cõng cháu chạy nhông,thương Nguyễn Khuyến
Danh hư vói ngõi, tổ thừa hơi?
Tranh chi ghế mục,chen thừa đít
Chiếu nát hổ mông, hợm hĩnh ngồi"?'
Cao trọng gì đâu phường áo mũ
Lương nhân không đáng một xu rơi
Hợm mình là lúc tâm mình hạ
Cái biết, thế gian biết cả rồi...
Sự đời rầu rật thân oằn quại
Xác sọm nhiều khi đã tã rời
Chạy bữa sắn khoai nhồi dạ lép
Mấy ai thấu tận cảnh tình ôi!?
Đất cằn nuôi rễ thầm lên sữa
Gằn chắt nuôi cây ,tẩm khí trời
Xua vợi sầu đau,vơi lệ ứa
Khát nắng mở ra rửa mặt người.
Đạo nát nhiễu hơn phường quỷ tặc
Rạn thân xem nhẹ vết lằn roi
Lành da, đau thấu vùi trong seo
Ai đếm ai đong giọt lệ vơi"?"
Dập bầm chạy bữa lo cơm gạo
Rát mặt trầy vai nẫu cảnh đời!
Vàng đỏ hơn người, xa xót phận
Thân cò thân vạc rạc bờ xôi!
Quá thấu nguồn cơn điều trở nghịch
Óc như hũ nút cũng đua đòi"?"
Khôn lường vũ trụ càn khôn chuyển
Cội rễ thúc mùn-hóng lá rơi
Sóng gió lụa lầy , thân ưởi oải
Bách tùng nào quản tuyết sương rơi
Quách thây nhân thế bêu trò bẩn
"Thớt có tanh tao" mới dụ ruồi "?"*
Chúa tể sơn lâm, dù hổ đói
Chẳng thèm xơi tạp thịt tanh rơi
Thân dù tơ tướp trong giông bão
Chí vẫn can trường quẫy khắp nơi!
Biết đã xác xơ khi vận mạt
Tim son vẫn đổ nhịp sinh hồi
Thuyền nan vững lái vươn trùng sóng
Hồn lộng buồm căng vượt bể khơi!
Lòng vẫn vương mang hồn Tổ Quốc
Canh trường trở giấc hẹn ngày vui
Tha hương, mỗi độ thu thay lá
Xa vắng cố nhân, tẻ xứ người!
Thôi rồi,từ ấy xa phường quận
Mực bén nghiên mài,bút chẳng nguôi
Rạ mục, trâu đàn, rau kể mớ...
Áng tuyệt! chắc chi đã khác vời"?"
Cho dù muối sát bào tim phổi
Xác tín ngày mai ắt sáng tươi
Muôn dặm lao lung đời lặn lội
Được thua nhẹ thoảng ván cờ chơi.
Nghĩa trượng, đã là trang kẻ sĩ
Bợn chi sầu muộn mãi bùi ngùi?
Chung chuồng kê phượng, đời thừa hiểu
Cáo có lột da, xác vẫn hôi
Thời thế cổ kim đều nhiễu sự
Ban thờ nước lụt, Cóc lên ngôi
Mặc đời nhăng nhố xênh xiêm áo...
Ta thưởng nguyệt huê đủ khoái rồi.
Xứng bậc tài hoa dù sớm muộn
Văn nhân tôn kính há đơn côi
Cho đời nửa chữ,quên danh phận
Lãng bổng hồn phiêu giỡn sóng khơi!
26-10-2021
Nguyễn Huy Khôi
NƠI CHỐN ĐÃ ĐI QUA
(Kính họa bài thơ tuyệt bút của Nhà Thơ Duyên Anh mang tựa đề
“Bài Tuổi Mù Khơi”)
Hải Dương
Mới khóc oe oe chạy giặc rồi!
U ơi! Lòng Mẹ biển mù khơi!
Địu con đòn gánh đang đà! Gẫy!
Giặc Pháp đi rồi! Bước lẻ loi!
Hải Phòng
Tám Gian, Chợ Sắt, Vườn Hoa, Kiệu
Nhà dột nghèo nàn mãi lệ rơi
Vào ngõ Cô Ba Chìa rải đá
Tiếng đàn Hát Xẩm thuở đương thời!
Đông Khê
Trường xưa mấy lớp sao quên lãng?
Thầy mặc Áo The trống điểm hồi
Trò nhỏ chẳng nghe gì Thắng, Bại
Tâm hồn trong sáng, dạ tinh khôi!
Di Cư
Bố đã trở thành người chiến sĩ
Bay về vội vã vẻ bùi ngùi
Theo Ba! Bỏ hết quê này lại!
Thà chết không cùng ở lũ ươi!
Há Mồm
Cả nhà hết sức đem toàn lực
Nhất quyết lên tàu tiếp cuộc chơi!
Quay lại nhìn nhà xiêu vách cũ
Đêm trăng trốn bắt trẻ vui cười!
Đà Nẵng
Ở đây cát đẹp tha hồ nghịch
Thấy trẻ ê a chạy lại đòi
Đi học trường to lên tận Phủ
Ba khuyên ráng học để nên người!
Quảng Nam
Hiếu học dù nghèo, không khấu tặc
Trọng Thầy tìm học dẫu ăn roi
Làng quê đậm dấu thời bom lửa
Ngũ Phụng Tề Phi vẫn chiếu ngời!
Điện Bàn
Một lỗ trên tường hằn cớ sự
Chiến tranh tàn phá đã qua rồi?
Đâu đây cây cỏ còn tan nát
Thăm Cụ khêu đèn oán chẳng vơi!
Quảng Ngãi
Thưa thớt dân tình tưởng đã mạt
Nhưng không, sức sống đã hoàn hồi
Áo Dài luôn mặc ra khu thị
Nhớ mãi quê hương dẫu cách vời
Hải Vân
Đường hẹp, đèo cao! Nên giới khuyến!
Đoàn dài khúc cuối chẳng tăm hơi!
Quân xa nối tiếp đi ngày ấy
Dừng lại lao xao kẻ đứng ngồi!
Gia Định
Rời khỏi Miền Trung đầu đội mũ
Về đây xa lạ thấy mưa rơi!
Cổng trường ngọt lịm màu bào đá
Bà Chiểu người đông đúng chợ rồi!
Xóm Gà
Sới Gà chiến bại đang quằn quại
Mê xem bám riết chẳng ai rời
Trông chừng hễ thấy cây roi mẹ
Vội vã quỳ lê cố ỉ ôi!
Sa Đéc
Đất lành chim đậu thơm heo sữa
Cây mát sông dài mãi cuối trời
Vẻ đẹp thôn quê thương nét hạnh
Nha Mân siêu đổ cả lòng người!
Vĩnh Long
Bô lão đánh cờ cười gian tặc
Thầy Cô nghiêm khắc sẵn cây roi
Học trò biếng trễ là tan nát
Sung túc tràn đầy mãi chẳng vơi
Sài Gòn
Thời ấy không ai lo thiếu gạo
Phố phường đẹp nhất ở trên đời
Làm sao nghe được ai “làm đĩ”
Trẻ học vui cười thơm miếng xôi
Chợ Lớn
Đến thăm chộn rộn thời tinh nghịch
Công tử nhà quê cũng học đòi
Sửa soạn áo quần thêm cái mũ
Tính tiền rỗng túi ánh sao rơi!
Khánh Hưng
Qua cầu nghe tiếng heo oằn oại
Chạy đến mọi phần đã chặt rời
Thu gọn không ai được xả rác
Vậy mà nhức óc hàng muôn ruồi!
Bà Chiểu
Chợ đẹp người dân đâu sợ đói
Chiến tranh tràn đến máu thịt rơi
Dân nghèo đi mót từng canh cặn
Ngơ ngác hoang mang hoảng khắp nơi
Đà Lạt
Quyết tâm đánh bại quân đê mạt
Truyền thống, oai danh phải phục hồi
Chí lớn bao trùm tràn đến đó
Bước chân rầm rập động ngàn khơi!
Bình Dương
Đây xứ dân lành thương tổ quốc
Lái Thiêu cây trái rộn cười vui
Bình Nhâm bỗng có ngày sương phủ
Tiếng súng ầm vang thức mọi người!
Long Giao
Vào trại còn mong về cố quận
“Mười ngày”! Hận ấy mãi khôn nguôi
Rồi xa mất hút miền đô thị
Tân Cảng tàu đi chuyến cách vời!
Yên Bái
Hít khói xi măng vào nát phổi
Đoàn xe lửa dọn món hàng tươi
Ngày dải cải tạo tù lao lực
Đói khát nhưng không bỏ cuộc chơi
Hoàng Liên Sơn
Đọa đày vẫn giữ tâm liêm sỉ
Khiêng bạn đi chôn mãi ngậm ngùi
Vạn kiếp không ngờ sao chiến bại?
Trả ta sông núi! Lũ tanh hôi!
Suối Tiên
Lâm Sản tổ ta thành vạn sự
“Suối Tiên” tên đặt đã lên ngôi!
Bà con nhớ đấy! Đừng quên nhé!
Người Lính Quốc Gia đẹp thật rồi!
Vĩnh Phú
Sốt độc Lắc Tô! Ôi quá muộn!
Tử vong hàng loạt chốn Mai Côi (1)
Hết lòng báo đáp đền ơn nước
Cầu nguyện Anh siêu thoát biển khơi!
Nước ơi!
Đức Hùng
Sydney, Úc Châu, 27/10/2021
Cước Chú :
(1) Mai Côi : Vùng thung lũng có loài Vi
Khuẩn tên Lắc Tô (lacto). Tù cải tạo bị đưa vào đó nhiễm
khuẩn lacto sốt lên 42 độ, chết trong hai ngàyh!
Cao dao địa phương :
Thương nhau cho thịt cho xôi
Ghét nhau đưa tới Mai Côi, Hạ Hoà
********
DANH TÁC
Cước Chú :
(1) Trong bài Hát Nói này, những chữ viết hoa là tên một số tác phẩm
bất hủ để lại cho đời của Nhà Văn, Nhà Thơ Duyên Anh.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét
*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!