Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

TẾT TRUNG THU -Thơ Phan Thượng Hải và Thơ Họa



TẾT TRUNG THU

 

Mừng Tết Trung Thu giữa cúc hoa

Vui Rằm tháng Tám khắp gần xa

Rước đèn quanh phố hân hoan trẻ

Ăn bánh tại gia thưởng thức trà

Nhớ lại Minh Hoàng mơ Nguyệt Điện

Thương lên Chú Cuội luyến Hằng Nga 

Ngắm Trăng huyền ảo hồn thanh tịnh

Lễ tục nhân sinh hưởng thái hòa.

(Phan Thượng Hải)

       9/26/25


Thơ Họa:

 

HỘI TRUNG THU

(Họa hoán vận)

 

Trung Thu hội mở chốn phồn hoa

Trống giục liên hoàn vọng thật xa

Nhún nhảy lân rồng xoay tất bật

Phẩy phe ông địa quạt khoan hòa

Thần tài dẫn lối săn tiền thưởng

Phố xá bung đèn chúc Nguyệt Nga

Ngày Tết trẻ con dần mở rộng

Tiệc vui người lớn, rượu thơm trà.

Lý Đức Quỳnh

   27/9/2025 


*Kính mời tham khảo Nguồn gốc của Lễ Tết Trung Thu -Bs. Phan Thượng Hải:

Nguồn gốc của Lễ Tết Trung Thu từ Hán Quang Vũ Đế, vị vua lập ra triều đại nhà Đông Hán (Hậu Hán).

Năm 23, Vương Mãng giết vua Hán Bình Đế của nhà Tây Hán (Tiền Hán) lập nhà Tân và làm vua (hoàng đế).  Một tôn thất của nhà Hán là Lưu Tú (vua nhà Hán họ Lưu) khởi binh chống lại Vương Mãng để khôi phục nhà Hán.  

Nhưng lúc đầu vì thế còn yếu, có một lúc Lưu Tú và quân lính bị vây.  Trong thành hết lương thực, Lưu Tú mới đặt bàn hương án cầu Trời.  Ngày đó là đúng ngày Rằm tháng 8.  Sáng hôm sau quân lính đào được một thứ khoai đem về ăn nhờ đó Lưu Tú và quân lính không bị chết đói.  Đó là một thứ khoai môn có vị rất bùi và ăn cũng ngon.  Như vậy lời cầu Trời của Lưu Tú được ứng nghiệm.  Tuy nhiên quân lính ăn nhiều khoai môn quá lại bị chứng sình bụng không đại tiện được.  Lưu Tú lại đặt bàn hương án cầu Trời.  Ba ngày sau trong khi đi tìm thức ăn, quân lính tìm được những cây bưởi.  Nhờ ăn những trái bưởi này, quân lính hết chứng sình bụng.  Nhờ có bưởi và khoai môn làm lương thực, Lưu Tú và quân lính sống sót cho đến khi quân cứu viện đến giải vây.

Sau này Lưu Tú khôi phục nhà Hán và lên ngôi làm vua, đó là Hán Quang Vũ Đế.  Để kỷ niệm sự kiện trên, vào đúng ngày Rằm tháng 8, Hán Quang Vũ Đế cho tổ chức Lễ Tết Trung Thu dùng bưởi và khoai môn để cúng mà tạ ơn Trời Đất.  Rồi Lễ được truyền khắp dân gian.  Từ đó bưởi và khoai môn cũng là 2 vật thực người Trung Hoa dùng để cúng Trăng.  Sau đó lần lần người ta mới bày thêm bánh in có đề chữ "Trung Thu nguyệt bính" và tổ chức thành Lễ Tết Trung Thu long trọng.   Rồi sau đó, Lễ Tết Trung Thu được thêm đặc biệt cho nhi đồng.

*

Chúng ta thường thấy Lễ Tết Trung Thu đặc biệt cho nhi đồng.

Ngay từ đầu tháng 8, Lễ Tết Trung Thu đã được sửa soạn với những cỗ đèn nhiều màu và nhiều hình thù; với những bánh dẻo và bánh nướng mà người ta gọi chung là Bánh Trung Thu; với những đồ chơi cho trẻ em muôn hình vạn trạng.

Các trẻ em đón Lễ Tết Trung Thu có những đèn xếp hay những đèn lộng sặc sỡ thắp sáng kéo nhau thành từng đoàn vui reo ca hát, đêm tối cùng nhau nhởn nhơ, cùng đi khắp nẻo đường.

Ngay chính ngày rằm, có những đám múa lân rầm rộ với tiếng trống tiếng thanh la đôi khi kèm theo tiếng pháo.

*

Văn học Việt Nam thường có kể chuyện "Mật Lệnh trong Nhưn Bánh Trung Thu" của người Trung Hoa nhân dịp Trung Thu.

Để khôi phục Trung Quốc từ tay nhà Nguyên của người Mông Cổ, Minh Thái Tổ là Chu Nguyên Chương sai Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đánh kinh đô Yên kinh của triều đình nhà Nguyên (Thành phố Bắc Kinh ngày nay).  Lúc đó người dân trong thành đang sửa soạn Lễ Tết Trung Thu.  Khi ăn bánh Trung Thu thì trong nhưn bánh đều có mảnh giấy vàng nhỏ để dòng chữ: "Khuya ngày Rằm, Phật Di Lạc giáng thế, cầm đèn lồng đi rước".  Người dân đều tin theo như vậy vì Phật Di Lạc theo Phật Giáo là vị Phật sẽ giáng thế cứu độ chúng sanh thay thế cho Phật Thích Ca.  Nhân dịp đông dân đều ra đường cầm đèn lồng trong đêm Trung Thu để rước Phật Di Lạc, quân nhà Minh trà trộn vào thành làm nội ứng mở cửa thành để cho đại quân tiến vào mà chiếm thành.

Đó là mưu kế của quân sư Lưu Bá Ôn của quân nhà Minh.

Thật ra chính sử của nhà Minh thì không nói đến chuyện này và cũng không có sự nội ứng của quân Minh.

Theo Anh Liệt Truyện, vua nhà Nguyên bỏ chạy trước và sau đó quân nhà Minh từ ngoài đánh vào 9 cửa thành Yên Kinh trong ngày Rằm tháng tám. 

*

Theo truyền thuyết (sách Dị Văn Lục), nhân một đêm Trung Thu đang ngắm trăng vua Đường Minh Hoàng muốn lên cung Trăng chơi (Đường Minh Hoàng du nguyệt điện). Đạo sĩ La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện) là người có phép Tiên mới biến một dải lụa trắng thành một chiếc cầu đưa nhà vua lên cung Trăng.  Tại Nguyệt điện, Đường Minh Hoàng thấy các tiên nữ múa hát cảm thấy say mê mà quên về nhưng nhà Đạo sĩ La Công Viễn nhắc nên vua mới trở về trần thế.

Nhờ ghi nhớ nên Đường Minh Hoàng chế ra khúc "Nghê thường vũ y" để tập cung nữ múa hát.  Rồi cứ mỗi đêm Trung Thu sau đó Đường Minh Hoàng cùng với Dương Quí Phi uống rượu dưới trăng ngắm đoàn cung nữ xiêm y rực rỡ uyển chuyển múa hát khúc Nghê thường để tưởng như đang sống ở cung Trăng (Nguyệt điện).

Truyền thuyết này có tính cách thần thoại. 

Sách Đường Thư chép;

         Đường Minh Hoàng lên chơi nguyệt điện thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim xiêm y ngũ sắc múa hát bài "Tây Thiên điệu khúc", đến khi trở về trần chỉ còn nhớ mang máng.  Nhằm lúc có Tiết độ sứ đất Tây Lương là Trương Kính Thuật từ đó trở về triều đem 1 khúc hát Bà La Môn đến hiến cho Đường Minh Hoàng.  Vua mới truyền đem san định lại và đổi tên là khúc "Nghê Thường Vũ Y".

Tài liệu này có phần đúng với thực tế hơn.

         Nghê là "cầu vồng" (tiếng miền Nam là "cái móng" do ánh nắng xuyên qua hơi nước trong mây mà phản chiếu thành bảy màu.  Sách Trung Hoa ngày xưa chỉ nhận định được có năm màu (ngũ sắc).

         Thường là "xiêm" để che hạ thân của người.

         Nghê Thường có nghĩa là xiêm có năm màu.

         Vũ Y là áo dệt bằng lông chim; hay có thể hiểu là kiểu áo theo hình cánh chim.

Ta có thể tưởng tượng rằng Nghê Thường vũ y là những vũ nữ mặc áo hình cánh chim còn quần thì phất phới ngũ sắc.

Tây Lương là ở phía cực Tây Bắc của Trung Quốc lúc bấy giờ giáp giới với Tây Vực (vùng Tân Cương bây giờ).  Tây Vực là con đường "Tơ lụa" (Silk road) mà người Trung Quốc sang Ấn Độ và các nước Trung Á.  Bà La Môn là người Ấn Độ.  Như vậy khúc hát Bà La Môn, tiền thân của khúc Nghê Thường Vũ Y, là của người Ấn Độ.

Trăng, Mặt Trăng {Tiếng Nôm} = Nguyệt {Hán ngữ}.

Con người ở thế gian (= Người Trung Hoa) nhìn lên Trăng (Mặt Trăng) thì thấy giống như hay có hình thể: 

         Cây Quế: có những vùng tranh tối tranh sáng gọi là Quế phách.

         Con Thiềm thừ (= Con Cóc có 3 chân): có những hố thiên thạch trên bề mặt của Mặt Trăng giống như hoa văn (= chữ Tàu) trên thân con Thiềm thừ.

         Con Thỏ: nhất là vào đêm Rằm.

Từ những nhận thức này và tiền sử Trung Quốc về Hậu Nghệ bắn Mặt Trời, người Trung Hoa sáng tạo ra những câu chuyện thần thoại về Mặt Trăng (Trăng).  

*

Chuyện đầu tiên bắt đầu từ Hậu Nghệ tạo ra vợ của Hậu Nghệ là Hằng Nga.  

Theo Tiền Sử của Trung Quốc, triều đại của nhà Hạ là triều đại đầu tiên.  Vua Hạ Vũ lập ra triều đại nhà Hạ truyền ngôi cho con là vua Khải và Khải truyền cho Thái Khang đều cai trị người Hạ (sau này gọi là người Hoa Hạ).  Thủ lãnh của người Di là Hậu Nghệ đuổi Thái Khang đi và lập em của Thái Khang là Trọng Khang làm vua.  Sau khi Trọng Khang chết, Hậu Nghệ chiếm ngôi vua cai trị người Hạ và người Di.  Hậu Nghệ là một người xạ thủ giỏi thường đi săn bắn không lo triều chính nên Hậu Nghệ bị người thân tín là Hàn Tróc giết đi và cướp ngôi.  Sau này cháu nội của Trọng Khang là Thiếu Khang đánh bại Hàn Tróc và chiếm lại ngôi vua cho nhà Hạ.  Triều đại nhà Hạ từ Thái Khang cho đến Thiếu Khang trải qua 100 năm hỗn chiến mới khôi phục lại được. Lịch sử gọi là Thời "Thiếu Khang trung hưng".  Từ vua Thiếu Khang truyền qua nhiều đời vua cho đến vua Kiệt mới mất thiên hạ về triều đại nhà Thương.  Triều đại Nhà Hạ ước lượng từ thế kỷ 21 tr CN cho đến thế kỷ 16 tr CN. 

Như vậy Hậu Nghệ là nhà thiện xạ.  Tương truyền rằng lúc đầu Thế gian (địa cầu) bị 10 Mặt Trời chiếu nên quá nóng bị thiêu đốt.  Hậu Nghệ mới bắn rơi 9 Mặt Trời chỉ còn lại 1 Mặt Trời nên Thế gian mới tồn tại được nhờ khí hậu ôn hòa hơn nhiều.

Từ chuyện Hậu Nghệ có liên quan đến Mặt Trời, Con người mới tạo ra chuyện "Hằng Nga bôn nguyệt" (Bôn = trốn chồng.  Bôn Nguyệt = trốn chồng tới ở Mặt Trăng) có liên quan đến Mặt Trăng.   

Chuyện "Hằng Nga bôn nguyệt"

         Hằng Nga là vợ của anh hùng xạ nhựt Hậu Nghệ, người đã bắn rơi 9 cái mặt trời là 9 con quạ lửa thiêu đốt trần gian (nên chỉ còn 1 cái mặt trời cho tới bây giờ).  Do đó Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu tặng cho thuốc trường sanh bất tử.  Hằng Nga lén trộm thuốc của chồng uống vào nên thân hình nhẹ nhõm bay lên trời và bay tuốt đến Mặt Trăng lạnh lẽo.  Hằng Nga làm chủ (hay được Ngọc Hoàng Thượng Đế cho) cung Quảng Hàn và có con Thỏ ngọc (= Ngọc Thố) giả thuốc trường sinh.  

*

Vì có Trăng nhìn giống như cây Quế nên có chuyện Ngô Cương đốn Cây Quế do Con người đặt ra.  Thật ra có 3 câu chuyện. 

         1. Có Ngô Cương ở Mặt Trăng bị Ngọc Hoàng phạt là có phận sự phải đốn cây Quế ở cung Quảng Hàn.  Ngô Cương lười biếng, mỗi ngày chỉ đốn có một nửa.  Qua đến ngày sau thì cây Quế lại mọc lại như cũ.  Do đó Ngô Cương cứ đốn hoài mà cây Quế vẫn còn hoài và Ngô Cương phải cứ đốn hoài mỗi ngày.  

         2. Có chuyện khác cho rằng cây Quế rất cao và to, Ngô Cương không thể nào đốn hết trong một ngày và ngày hôm sau cây Quế lại mọc lại như cũ.  Cây Quế này thường được tả là cây Quế màu đỏ và cao 500 trượng.

         3. Một câu chuyện khác kể rõ hơn: Ngô Cương là người đất Tây Hà đời nhà Hán, học phép Tiên nhưng vì phạm lầm lỗi nên bị thiên đình phạt làm công việc chặt cây Quế ở cung Trăng; Ngô Cương chém được nhát nào thì nhát búa lại liền ngay lát đó chứ cây Quế không bị đứt.

Con người lại đặt thêm chuyện để gắn liền Ngô Cương với Hằng Nga:

         Ngô Cương là thiên binh (= lính trời) gát ở Nam Thiên môn tình cờ gặp Hằng Nga vì thế trốn làm việc tới cung Quảng Hàn chơi một ngày. Ngọc Hoàng phạt phải làm lính ở cung Quảng Hàn luôn.  

*

Vì Trăng nhìn giống như con Thiềm thừ (= Cóc ba chân) nên có Con người gọi Nguyệt Cung (= Cung Trăng) là Thiềm Cung và giới thiệu từ ngữ này nhờ Ngô Cương.  Đó là Chuyện hay Thành ngữ "Thiềm cung chiết quế".  Theo đó, Ngô Cương ban cành Quế cho ai ở trần gian thì người đó thi đậu, danh đề bảng vàng hoặc đặc biệt hơn nữa là đậu Trạng nguyên!

Có thuyết khác cho rằng: Hằng Nga ban đầu vốn xinh đẹp nhưng sau khi bay lên Mặt Trăng thì bị Trời phạt nên biến thành con Thiềm thừ xấu xí.

Như vậy "Chuyện Ngô Cương" của người Trung Hoa có 2 phần: liên quan tới Hằng Nga và liên quan với con Thiềm thừ.

Chuyện Cung Quảng và Hằng Nga cũng có liên quan đến con Thiềm thừ.

*

Từ Trung Quốc sang Nước Việt, Ngô Cương được người Việt biến thành "Cuội, Chú Cuội hay Thằng Cuội" và Cây Quế thành ra Cây Đa.  Hình như theo người Việt thì Cuội chỉ ngồi dưới gốc cây Đa chứ không phải đốn cây Đa.

*

Khi nói đến Tết Trung Thu thì cũng phải nói đến Trăng Trung Thu: trăng tròn, trăng sáng, trăng đẹp.  Nên người Trung Hoa còn có tục "Ngắm Trăng" (Thưởng Nguyệt) trong đêm Tết Trung Thu.  

Ngoài ra "trông Trăng" trong đêm Trung Thu còn dùng để tiên đoán thiên thời, địa lợi và nhân hòa trong năm. 

Theo cổ học Đông phương, Trăng (= Nguyệt) thuộc về Thủy trong ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) mà Thủy (= nước) là một yếu tố quyết định của nghề nông.  Cho nên trong đêm Rằm Trung Thu, người dân kéo ra sân mà quan sát mặt trăng (trông trăng).  

         Nếu Trăng vàng thì năm tới sẽ trúng mùa tằm tơ.

         Nếu Trăng có màu xanh, màu lục thì thiên hạ sẽ lâm cảnh thất mùa cơ hàn do thiên tai hạn hán lụt lội...

         Nếu Trăng trong sáng có màu cam thì sẽ có cảnh thái bình thạnh trị. 

Bs PHAN THƯỢNG HẢI biên soạn

Bài này gồm những trích đoạn của 2 bài trong phanthuonghai.com mục Văn Hóa. 

1) Sự Tích Những Ngày Lễ Tết Trong Niên Lịch (Bs Phan Thượng Hải)

2) Chuyện Thần Thoại Về Mặt Trăng (Bs Phan Thượng Hải)


Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét

*Đăng nhận xét,các bạn có thể copy link hình và dán trực tiếp vào ô comment mà không cần dùng thẻ.
Chú ý:đường link hình ảnh phải đặt cuối cùng.
*Cảm ơn các bạn đã thăm và chia sẻ!