SỰ MẶC KHẢI CỦA THI CA
Trần Mạnh Hảo
Từ độ con người chia tay với Thượng
Đế, đi theo tiếng gọi của tình yêu và nỗi chết trong cuộc trưởng thành thống khổ
của nhân loại, nó luôn tìm cách trở lại tuổi thơ của mình, trở lại vườn địa
đàng tìm lại trái cấm thuở ban đầu ngon ngọt. Cuộc hành hương mơ mộng ấy có tên
là Thi Ca…
I. Thi ca – giấc mơ về tuổi thơ
nhân loại:
Kinh Thánh không chép được lời của
Eva xui Adam ăn trái cấm. Chỉ biết rằng khi đôi môi ma túy của nàng ghé sát vào
tai chàng, chợt cơn thèm ăn trái cấm bùng vỡ trong cuống họng chàng, bất chấp lời
răn đe chết người của thần linh. Mắt Adam chỉ nhìn thấy trái cấm trong y phục
lõa thể của tòa thiên nhiên tuyệt mỹ. Chàng đã hành động chiều theo ý người đẹp,
để chia tay sự bất tử, đồng thời nhận lấy tình yêu và cái chết. Có lẽ, lời thì
thầm của Eva khuyên Adam ăn trái cấm hôm đó là bài thơ đẹp nhất của nhân loại?
Vì vậy người đời đã gọi thi ca bằng cái tên diễm lệ: Nàng Thơ.
Thi ca và tình yêu do đó đã được
sinh ra đồng thời với niềm xúc cảm tuyệt vời của ngôn từ, thông qua tiếng nói
linh thiêng của Eva, đánh thức trái tim gỗ đá Adam, khiến nó phát lộ đam mê
cùng tận. Nếu phẩm hạnh của triết học là hoài nghi, của tôn giáo là đức tin,
thì phẩm hạnh của thi ca là rung cảm và mơ mộng. Thi ca và tình yêu đều được
phát nguyên từ cội nguồn trái tim con người, thông qua hình tượng và ngôn ngữ.
Chừng như sự xuất hiện tiếng nói trong vườn Eden còn quan trọng hơn sự hiện diện
của Thượng Đế.
Bởi vì trong buổi bình minh của
nhân lọai, tiếng nói cũng được đồng nghĩa với thần linh. Eva và Adam cùng dắt
tay nhau, một bàn tay nàng vịn vào tình yêu, một bàn tay chàng vịn vào thi ca,
trả lại Thượng Đế sự bất tử để đi về phía mồ hôi, nỗi thống khổ, khoái lạc và
cái chết có tên là trần thế. Từ đó, thi ca là giấc mơ của con người luôn luôn
khao khát tìm về thời ấu thơ của mình trong vườn địa đàng ký ức. Nơi đó, con
người sống chung với thần linh trong gia đình vũ trụ. Nơi đó, như kinh Veda mô
tả, con người không thể và không muốn phân biệt mình với một đám mây, con bò
hay thần thánh. Tất cả là nhất nguyên đơn sơ mà kỳ lạ, lắng đọng mà riêng rẽ,
hài hòa mà phân thân.
Kinh Cựu Ước nói rằng Thượng Đế đã
sáng tạo ra con người theo hình ảnh của mình. Điều này phải nói ngược lại mới
chính xác. Sự sáng tạo ra khái niệm Thượng Đế là sự sáng tạo vĩ đại nhất của
con người để tháo bỏ cái lốt cuối cùng của dã thú, sau khi tiếng nói và tư duy
xuất hiện. Chính ý thức đã ném con người vào vũ trụ cô đơn, khiến nó sợ hãi vô
cùng trước hư vô và cõi chết.
Để có một cứu cánh, một nơi bấu víu
cuối cùng vào thế giới trơn tuột này, con người đã rất thông minh khi sáng tạo
ra người bạn vĩ đại toàn năng theo hình ảnh của mình, như cái phao trên biển cả
để vượt thoát nỗi cô đơn và cái chết. Người bạn đó, cái phao cứu hộ đó có tên
là thần linh. Thiêng liêng hóa hình ảnh của mình là bước tiến nhân bản nhất của
khởi nguồn nhân loại. Có thể nói, thần linh đã được sinh ra trong cảm hứng thi
ca, trong rung cảm cô đơn tột cùng của con người. Ngay cả khi con người đã
thoát khỏi đa thần giáo, Thượng Đế của các tôn giáo hầu như đều là đứa con sinh
đôi đồng thời với thi ca.
Apollon, vị thần thi ca uy quyền
vào loại bậc nhất trong thần thoại Hi Lạp là hứng khởi của chiến thắng trừ cha
mình là thần Zeus. Apollon có mặt trong hầu hết sự sáng tạo nơi đỉnh Olempo,
tham dự vào mọi xúc cảm của vũ trụ và con người. Chừng như chính Apollon đã hóa
thân vào Homère để sáng tạo ra thiên anh hùng ca Iliade và Odyssée ? Thi ca hay
là sự huyền ảo của tuổi thơ nhân loại, một lần nữa, đã được một người trần mắt
thịt là Homère đưa trở lại vườn Eden Hi lạp.
Ở đó, nhờ thi ca, thần linh được sống
kiếp con người với tất cả bản năng nguyên thủy, với vẻ đẹp của đam mê, khoái lạc
và tội lỗi. Có thể ngày nay thần linh đã rời bỏ đỉnh Olempo huyền thoại, nhưng
thi ca đã không rời bỏ con người. Thi ca đã hóa thân thành nàng Pelenop,luôn
luôn biết cách đợi chờ niềm thi hứng của con người, như đã từng đợi chờ chàng
Odyssée trở về từ cuộc lãng du thần thoại. Từ độ con người chia tay với Thượng
Đế, đi theo tiếng gọi của tình yêu và nỗi chết trong cuộc trưởng thành thống khổ
của nhân loại, nó luôn tìm cách trở lại tuổi thơ của mình, trở lại vườn địa
đàng tìm lại trái cấm thuở ban đầu ngon ngọt. Cuộc hành hương mơ mộng ấy có tên
là Thi Ca.
II. Thi ca hay là sự cứu rỗi của
cái Đẹp.
Trong cuốn “Thi Pháp”, Aristote đã
gọi khoa học, nghệ thuật, trong đó hàm chứa cả khái niệm nguyên thủy linh hồn
và Thượng Đế bằng một cái tên rất khải thị là Thi Ca. Chừng như khái niệm Thi
Ca của Aristote có nét gì đó hao hao với khái niệm Đạo của Lão Tử, mặc dù chữ Đạo
của Lão có phần căn nguyên và rốt ráo hơn. Triết học, nói cho cùng đã được
giáng sinh trong máng cỏ ấm nồng của niềm hứng khởi thi ca. Vũ trụ được gói
trong một chữ Dịch của Khổng Tử hay một chữ Đạo của Lão chỉ có thể đi vào tâm
trí con người bằng niềm xao xuyến thi ca. Ngay cả thế giới ý niệm duy tâm của
Platon cũng phải thông qua hình ảnh ngôn từ,trong nỗi xúc cảm dù thoáng gợn lăn
tăn của thi ca. Có thể mượn lời của Socrate nói về mình để nói về thi ca: “Mẹ
tôi đỡ đẻ cho những sản phụ, tôi đỡ đẻ cho những bộ óc.”
Thi ca – bà đỡ kỳ diệu của triết học,
đã tìm ra phép cắt rốn cho niềm siêu hình tăm tối, khiến cái tưởng như già cỗi
nhất, khô cằn nhất biết cất lên tiếng khóc non tơ chào đời trong ánh sáng của
suy tưởng và xúc cảm. Vì vậy, chúng ta dễ giải thích vì sao nền văn minh Trung
Hoa được khởi nguồn bằng bộ Kinh Thi vĩ đại. Hầu hết các nền văn minh đều được
sinh thành từ nguồn sữa Thi Ca. Văn mimh Hi Lạp bắt đầu từ thần thoại của thần
thi ca Apollon và nữ thần Athena, vị thần của văn học và điêu khắc. Văn minh Do
Thái khởi phát từ các chương Thi Thiên trong Cựu Ước. Trường ca Veda là nền tảng
cho nền văn minh bí ẩn Ấn Độ.
Đức Phật, Chúa Jésus hay tiên tri
Mahomet… nói cho cùng đều là những nhà thơ lớn vào bậc nhất nhân loại. Khởi nguồn,
thông qua sự mặc khải thi ca, tôn giáo đã tìm đến con người với đôi tay bè bạn,
với tiếng nói của tình nhân, với niềm an ủi sẻ chia hơn là niềm cứu rỗi. Tôn
giáo mượn con đường thi ca để con người tìm ra đối trọng trước hư vô, đặng hoá
giải cái chết, mang đến cho cái chết xiêm y trần gian xúng xính và một bộ mặt đầy
thiên giới, do đó cũng đầy nhân tính hơn. Tôn giáo đã dùng thi ca làm đôi cánh
để đưa con người bay qua vực thẳm cô đơn, giúp con người có thêm người bạn đồng
hành Thượng Đế. Người bạn siêu phàm kia cũng chính là sự hoá thân của con người
thông qua xúc cảm thi ca đầy mộng mơ và lãng mạn.
Nếu triết học đi tìm sự khôn ngoan,
tôn giáo đi tìm thần linh thì thi ca đi tìm cái Đẹp. Chiến tranh, cuồng tín, dịch
bệnh, thiên tai… hàng mấy nghìn năm qua đã đe dọa cái Đẹp của con người bằng sự
dung tục hóa, bằng lòng tham và thù hận, nhưng không tước đọat được niềm mộng
mơ đầy thi vị của nhân loại.
Bởi vì thi ca chính là hài nhi
trong máng cỏ loài người, là sự hồn nhiên nhất của tuổi thơ nhân loại còn sót lại.
Nếu đứa trẻ con ấy không còn, thì đôi mắt ngây thơ của loài người cũng biến mất,
đồng thời cái Đẹp cũng biến mất. Nếu triết học là sự già giặn, là ông lão của
con người thì thi ca càng cần phải giữ lấy tính trẻ con của nhân loại. Người
Trung Hoa đã nhìn ra điều đó nên gọi Tạo Hóa là hóa nhi. Vì mãi giữ được sự trẻ
con như vậy, nên Tạo Hóa chính là nhà thơ vĩ đại nhất đã sáng tạo ra vũ trụ và
con người trong niềm thi hứng vĩnh cửu, rồi truyền cho con người xúc cảm thi ca
khởi nguồn mọi sáng tạo ấy. Chính vì vậy, cái Đẹp đã được thi ca cứu chuộc trên
cây thập tự của xúc cảm ngôn từ.
III. Thi Ca trong đời sống tâm linh
người Việt.
Trong lịch sử thi ca thế giới, hiếm
thấy tác phẩm nào đi sâu vào đời sống tâm linh con người như Truyện Kiều của
Nguyễn Du đối với dân tộc Việt Nam. Hiện tượng bói Kiều của người bình dân đã
chứng tỏ vai trò của thi ca trong đời sống xã hội thật to lớn, mặc dù Truyện Kiều
mới xuất hiện trên hai trăm năm nay. Chừng như Thi Ca đã mượn Nguyễn Du để cài
vào mỗi câu, mỗi trang Kiều toàn bộ bí ẩn của đời sống với sự mặc khải về một
tôn giáo mới-tôn giáo của cái đẹp. Trong hố thẳm tuyệt vọng, thi ca đã để sẵn một
bàn tay dìu dắt.
Trong trái cây đau khổ, thi ca là
cái nhân cựa quậy một niềm vui rón rén nảy mầm. Bằng hai bàn tay may rủi, con
người tìm cách bấu víu vào mỗi câu Kiều như bấu víu vào ánh lửa le lói trong
chính tâm hồn mình, đặng nhờ thi ca mách bảo những điều mà thần linh không thể
mách bảo. Thi ca tìm đến với con người không phải bằng nỗi sợ hãi thần thánh của
tôn giáo mà bằng niềm tri âm tri kỷ rất tình nhân, an ủi mà không thương hại,
trìu mến mà không ban phát, say đắm mà không cuồng dại. Cái đẹp nơi Truyện Kiều
không chỉ cần được giải mã bằng tiếng kêu thương, bằng niềm khắc khoải, mà còn
cần được giải mã bằng đức tin và niềm hi vọng.
Người ta chắp tay để: “Lạy ông Từ Hải,
lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều…” như là để lạy chính nỗi thống khổ của
kiếp người, lạy sự chịu đựng, sự hi sinh, thậm chí yếu đuối thiệt thòi của cái
thiện, lạy cái phần bị đày ải nhất của nhân sinh. Ở nơi đó là “thập loại chúng
sinh”, cái gốc của cái đẹp nâu sồng mà mimh triết,giản dị mà bền vững. Do vậy,
chúng ta hiểu vì sao thi ca có lúc đã biến thành kinh kệ trong đền chùa miếu mạo
như trường hợp “văn tế thập loại chúng sinh” của Nguyễn Du và của một số nhà
thơ khác.
Trước khi tam giáo được truyền vào
Việt Nam,thi ca đã xuất hiện cùng với tuổi bình minh của dân tộc. Nền văn
chương truyền miệng với ca dao tục ngữ đã làm nên dấu ấn tâm hồn Việt Nam, tạo
nên bản sắc thẩm mỹ của đời sống tinh thần dân tộc. Trong chừng mực nào đó, thi
ca với gương mặt ca dao tục ngữ là nơi ký gởi ký ức và kinh nghiệm nhân sinh của
cộng đồng, đồng thời thi ca còn đóng vai trò như những câu kinh trong tôn giáo,
giúp con người có cơ hội tìm lại hình ảnh mình trong đời sống tâm linh, thông
qua nỗi xúc cảm và vẻ đẹp của thế giới trong tư duy, trong ngôn từ. Sự sáng tạo
ra thể thơ lục bát trong ca dao phải chăng là sự sáng tạo kỳ vĩ nhất của thi ca
dân tộc, là nhịp đưa nôi của tuổi thơ Lạc Việt, là tiếng ầu ơ của của mẹ Âu Cơ,
của biển ru bờ.
Nhịp thơ sáu tám dường như cũng đưa
đẩy, gập ghềnh, trầm bổng theo vận nước nổi trôi, theo dáng hình tia chớp của một
đất nước mà lịch sử luôn giành cho những con đường khúc khuỷu, cam go. Cái hồn
nước đã được thi ca gởi gắm trong lục bát ca dao, may mắn thay thế hệ chúng ta
vẫn còn giữ được, mặc những hò hét hiện đại chủ nghĩa, mặc những dòng thơ lai
căng tây hoá giả cầy. Cái hồn lục bát ca dao mới mẻ mãi mãi kia chính là của ăn
đường, là vốn liếng của hành trình thi ca dân tộc. Nó được lời thêm, giàu thêm
bởi Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Huy Cận…Nó rung động ngay cả niềm tin tôn giáo của
dân chúng trong điệu hát chầu văn nơi đình chùa lễ hội, khơi dậy niềm vui sống
trong làn điệu chèo, quan họ, ví dặm hoặc hát đúm. Lục bát như sợi dây lạt buộc
lời giao duyên, buộc liền anh vào liền chị, buộc bộ tộc Lạc Việt vào mảnh đất
hình chữ S này trong niềm đa cảm của nền văn minh lúa nước.
Dân tộc chúng ta đã tiếp nhận Phật
giáo, Nho giáo,Đạo giáo thông qua đôi mắt hồn nhiên, mơ mộng, thông qua một tâm
hồn thi sĩ. Tôn giáo được truyền vào nước ta không chỉ có niềm tin siêu hình,
mà còn cả nét tinh hoa của văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ. Phật giáo được kết hợp với
triết học đầy thi hứng của Lão Trang truyền qua nước ta sau khi đã được truyền
trực tiếp từ Ấn Độ. Từ thiền phái của nhà sư Tây Trúc Ti-ni-đa-lưu-chi đến thiền
phái của nhà sư Trung Hoa Vô Ngôn Thông đã tạo ra thiền tông Trúc Lâm Trần Nhân
Tông,
Tuệ Trung Thượng Sỹ chính là công
cuộc Việt hoá thiền tông trong cảm xúc thi ca bí ẩn của đời sống tâm linh dân tộc.
Thiền,hay chính là thi ca được cô tịch trong tột cùng im lặng? Cuộc đi tìm Niết
Bàn trong mỗi tâm hồn con người hoá ra lại thông qua niềm hứng khởi thi ca,
thông qua xúc cảm về cái đẹp hằng sống trần gian hơn là đi tìm chỗ bấu víu
trong hư không thăm thẳm. Hầu hết các nhà sư thời Lý đều là những nhà thơ thiền
như Không Lộ thiền sư, Mãn Giác thiền sư… Phật giáo thông qua đôi mắt ngơ ngác
huyền ảo Lão Trang tạo tiền đề cho Thiền xuất hiện, được truyền qua Việt Nam
trong tinh thần thực tiễn thâm sâu Nho giáo, kết hợp với cái mộc mạc hồn nhiên,
dân dã, giản dị và chân thành Giao Châu, tạo ra hàng loạt nhà thơ, những người
hướng dẫn tinh thần dân tộc như: Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn,
Lã Đinh Hương, Lý Phật Mã…Thi ca đã biết cách cư trú nơi chùa chiền miếu mạo
không phải trong vai trò tín đồ hay sư sãi, mà là biểu hiện của cái Đẹp, là nét
xao xuyến trần gian ngay trong lòng siêu hình hư tưởng.
Thi ca – con đường sương khói dẫn đến
đời sống tâm linh con người, là con thuyền chở Đạo, đồng thời cũng biết cách biến
mình thành phương tiện tự vệ khi cộng đồng lâm nguy. Huyền thoại về bài thơ “Thần”
của Lý Thường Kiệt trên phòng tuyến sông Như Nguyệt đã chứng tỏ vai trò, sức mạnh
của thi ca trong cuộc đánh bại quân xâm lược qủa là to lớn. Suốt hành trình lịch
sử, khi có giặc, thi ca đã thành vũ khí, thành tiếng kèn xung trận. Khi hòa
bình, thi ca tham gia vào đời sống đạo hạnh, gìn giữ thuần phong mỹ tục khi
Nguyễn Trãi soạn “Gia huấn ca”, Lê Thánh Tông tức cảnh sinh tình, mượn thi ca
mà an dân trị quốc …Thi ca tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, gia
đình và cá thể. Cuộc sống dù cực nhọc chừng nào cũng phải giữ lấy chất thơ của
nó, như giữ lấy cốt cách mộng mơ dân tộc.
Cũng như bao đất nước khác trên
hành tinh, đất nước chúng ta bao giờ cũng vẫn là một đất nước thi sỹ. Thi ca đã
xuất hiện đồng thời với tiếng Việt, đã song hành với mọi thăng trầm lịch sử, đã
góp phần to lớn trong sự hình thành bản sắc văn hóa và nền tảng tinh thần dân tộc.
Nhiều người lo sợ cho sự tồn tại của thi ca trước sự xâm lăng toàn diện của chủ
nghĩa thực dụng thời kinh tế thị trường khắc nghiệt này. Không, thi ca vẫn là
dòng nước ngầm nuôi dưỡng sự xanh tươi trong đôi mắt hồn nhiên ngơ ngác của dân
tộc. Thiếu đôi mắt hồn nhiên kia, thi ca có thể sẽ ra đi cùng với sự ra đi của
ngôn ngữ. Nhưng thảm hoạ ấy sẽ không bao giờ xảy ra, khi thi ca mãi mãi giữ lại
cho chúng ta cái tuổi thơ huyền nhiệm của dân tộc và nhân loại. Ở đó, trong đời
sống tâm linh con người, thi ca bao giờ cũng là niềm mặc khải của Chân Thiện Mỹ,
hoài niệm và tiên cảm cho chúng ta về một thế giới mãi mãi tồn tại trong nỗi
xúc động ban đầu…
T.M.H.
Thăm Quỳnh buổi tối nhưng bài dài quá không có thời gian để đọc hết . Chúc Quỳnh tối vui nha
Trả lờiXóaVâng,bài hơi dài.
XóaCảm ơn anh đã thăm,chúc anh bình an !
Qua thăm bạn . Đọc được một đoạn bài viết thật hay . Mình sẽ sang đọc tiếp vào ngày mai nhé .
Trả lờiXóaChúc bạn cùng gia đình một buổi tối thật an lành .
Cảm ơn NT ,chúc bạn luôn hạnh phúc!
XóaBài viết cuả TMH hay ! Chúc Q thật vui và sáng tác hay nhé
Trả lờiXóaCảm ơn chị Nhã My,chúc chị nhiều sức khỏe và thảnh thơi !
XóaCảm ơn Quỳnh cho đọc bài lý luận văn học rất hay của Trần Mạnh Hảo.Minh rất khoái.Chào nhé!
Trả lờiXóaCảm ơn anh Huy Khôi đã ghé thăm.
XóaChúc anh sức khỏe !
Xin có đôi vần cùng đọc:
Trả lờiXóaMẬT KHẢI
Vườn Địa Đàng khơi mùa chín trái
Để thi ca bật chồi nụ tình yêu!
Hoa mơ si đắm đằm mê dụ
Trái cấm khát khao thỏa mộng chiều!
Lều cỏ,am thanh bừng nguyệt dọi,
Lâu đài,thành quách thoảng vân phiêu.
Đường quan hoạn lộ phều sương tản
Sen đóa tẩm hương,...ẩn vẻ kiêu.
12-2017
Nguyễn Huy Khôi